1. Về kiến thức: Học viên nắm được:
- Hiện trạng cuộc thi Khoa học – Kỹ thuật của học sinh phổ thông.
- Quy trình và nghiệp vụ hướng dẫn học sinh phổ thông thực hiện các đề tài NCKH.
- Những kiến thức cơ bản về phương pháp luận NCKH.
2. Về kỹ năng: Học viên củng cố và phát triển các kỹ năng:
- Tư duy về vấn đề nghiên cứu, từ đó hướng dẫn học sinh hình thành đề tài nghiên cứu.
- Phát huy năng lực hướng dẫn học sinh: Xây dựng đề cương và triển khai kế hoạch nghiên cứu đề tài.
3. Về thái độ: Học viên cần:
- Nghiêm túc, đam mê trong NCKH.
- Truyền cảm hứng sáng tạo và say mê NCKH cho học sinh.
KẾT QUẢ MONG ĐỢI 1. Về kiến thức: Học viên nắm được: - Hiện trạng cuộc thi Khoa học – Kỹ thuật của học sinh phổ thông. - Quy trình và nghiệp vụ hướng dẫn học sinh phổ thông thực hiện các đề tài NCKH. - Những kiến thức cơ bản về phương pháp luận NCKH. 2. Về kỹ năng: Học viên củng cố và phát triển các kỹ năng: - Tư duy về vấn đề nghiên cứu, từ đó hướng dẫn học sinh hình thành đề tài nghiên cứu. - Phát huy năng lực hướng dẫn học sinh: Xây dựng đề cương và triển khai kế hoạch nghiên cứu đề tài. 3. Về thái độ: Học viên cần: - Nghiêm túc, đam mê trong NCKH. - Truyền cảm hứng sáng tạo và say mê NCKH cho học sinh. PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỀ TÀI KHOA HỌC LĨNH VỰC XÃ HỘI – HÀNH VI 1. Yêu cầu và tầm quan trọng của việc học sinh phổ thông NCKH - Khuyến khích học sinh trung học NCKH; sáng tạo kĩ thuật, công nghệ và vận dụng kiến thức của các môn học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. - Góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học; đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; thúc đẩy giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; nâng cao chất lượng dạy học trong các cơ sở giáo dục trung học. - Khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, cơ sở nghiên cứu, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ hoạt động nghiên cứu KHKT của học sinh trung học. - Tạo cơ hội để học sinh trung học giới thiệu kết quả nghiên cứu KHKT của mình; tăng cường trao đổi, giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các địa phương và hội nhập quốc tế. 2. Những điểm còn hạn chế của cuộc thi Khoa học – Kỹ thuật của học sinh 2.1. Về nhận thức - Mặc dù hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm qua nhưng một bộ phận cán bộ quản lí, giáo viên và cha mẹ học sinh chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của nghiên cứu khoa học đối với việc đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh. Vì thế, ở một số đơn vị chỉ chú trọng đầu tư cho một số học sinh tham gia nghiên cứu với mục tiêu dự thi cấp quốc gia mà chưa chú trọng tổ chức rộng rãi hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trong các nhà trường. - Cũng vì nhận thức chưa đúng nên một số cha mẹ học sinh đã "đầu tư" cho con em mình nghiên cứu chỉ với mục đích là được dự thi cấp quốc gia hay quốc tế, để được tuyển thẳng vào đại học hoặc dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm cơ hội du học nước ngoài. Việc này đã làm sai lệch động cơ nghiên cứu của các em và vô hình chung làm cho học sinh có nhận thức không đúng đắn về hoạt động nghiên cứu khoa học. 2.2. Về công tác tổ chức - Mặc dù Cuộc thi đã được tổ chức hằng năm nhưng một số địa phương còn chưa chủ động trong việc triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh, chưa huy động được đông đảo học sinh tham gia nghiên cứu để tạo được nhiều dự án để lựa chọn cho cuộc thi cấp tỉnh. Có đơn vị chưa tổ chức cuộc thi cấp tỉnh mà chỉ lựa chọn một số dự án để cử đi tham dự Cuộc thi cấp quốc gia. - Việc thực hiện các yêu cầu về tổ chức Cuộc thi cấp quốc gia của một số địa phương còn hạn chế, nhất là về các quy định thực hiện trên website của Cuộc thi, dẫn đến những sai sót về thông tin của học sinh cũng như chậm trễ về thời gian, gây khó khăn cho công việc chung. - Công tác theo dõi, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả triển khai hoạt động khoa học và cuộc thi khoa học kĩ thuật ở các địa phương chưa có điều kiện thực hiện đầy đủ, kịp thời. - Quy trình thẩm định và đánh giá các dự án dự thi của học sinh vẫn còn những điểm phải tiếp tục cải tiến; việc đánh giá năng lực thực sự của học sinh trong quá trình thực hiện dự án còn gặp khó khăn. 2.3. Về nội dung các dự án Đối chiếu với các tiêu chí đánh giá dự án khoa học kĩ thuật của Intel ISEF, các dự án của học sinh Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế như sau: - Việc nghiên cứu tổng quan còn hạn chế, dẫn tới câu hỏi/vấn đề nghiên cứu chưa được xác định một cách rõ ràng, cụ thể trong mối quan hệ với những nghiên cứu mới nhất trong và ngoài nước. Vì vậy có những đề tài đã không xác định được tường minh điểm mới so với những đề tài cùng lĩnh vực đã được công bố. Cũng vì chưa đầu tư nghiên cứu tốt về tổng quan nên học sinh chưa đề xuất được những ý tưởng mới và vì thế nhiều dự án dự thi mới chỉ đạt mức độ "cải tiến", chưa thể hiện được sự sáng tạo về mặt khoa học hay kĩ thuật. Một số dự án còn "nhầm" lĩnh vực đăng kí dự thi, thể hiện việc xác định vấn đề/câu hỏi nghiên cứu chưa rõ ràng về mặt khoa học. - Việc lập kế hoạch nghiên cứu của một số dự án chưa được thực hiện một cách khoa học, thể hiện ở việc hoàn thành các Biểu mẫu của Cuộc thi chưa chuẩn xác về mặt nội dung cũng như thời gian thực hiện; cũng vì thế mà chất lượng nghiên cứu còn hạn chế. - Việc ghi chép các minh chứng và lí giải về quá trình nghiên cứu, bao gồm việc xác định vấn đề nghiên cứu, lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề và quá trình thực thi giải pháp để giải quyết vấn đề... còn hạn chế, thể hiện ở việc lúng túng khi phải trả lời các câu hỏi dạng "Tại sao lại làm thế này mà không làm thế kia?". - Cách trình bày kết quả nghiên cứu của nhiều dự án còn rập khuôn, nặng về hình thức. Nhiều bản báo cáo dự án còn có cấu trúc như là một luận văn, luận án, trình bày dài dòng về cơ sở lí luận nhưng không làm bật được vấn đề nghiên cứu và điểm mới, sáng tạo của đề tài. Việc trình bày poster cũng như việc trả lời phỏng vấn của một số học sinh còn hạn chế, chưa sáng tạo, linh hoạt. 3. Một số nguyên nhân của hạn chế - Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của học sinh, gia đình học sinh, nhà trường và xã hội còn hạn chế. Việc triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của một số địa phương mới ở mức độ phát động phong trào, còn thiếu kế hoạch triển khai và tổ chức các hoạt động cụ thể để lôi cuốn học sinh tham gia, qua đó phát hiện và bồi dưỡng những ý tưởng khoa học, những học sinh có có lòng say mê và khả năng nghiên cứu khoa học. - Năng lực và quy trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học của một số nhà trường, giáo viên còn hạn chế, chưa tạo cơ hội để học sinh phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo trong việc đề xuất và thực thi ý tưởng sáng tạo khoa học kĩ thuật, thể hiện ở việc chưa hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch nghiên cứu để phê duyệt trước khi tiến hành nghiên cứu. Một số giáo viên hướng dẫn chưa nắm được những quy định của Cuộc thi, kể cả Tiêu chí đánh giá dự án dự thi. Trong quá trình hướng dẫn, giáo viên chưa yêu cầu học sinh thực hiện đầy đủ các yêu cầu về hồ sơ dự thi, thể hiện qua việc hoàn thành và nộp các Biểu mẫu một cách chính xác và đúng hạn. Một số dự án còn nặng “bóng dáng” của người hướng dẫn từ ý tưởng đến việc trình bày kết quả nghiên cứu. - Khả năng tìm tòi và tham khảo các tài liệu khoa học chuyên ngành của cả giáo viên và học sinh còn hạn chế, nhất là việc tìm và nghiên cứu các tài liệu bằng tiếng Anh trên mạng, dẫn tới có những dự án được thực hiện có thể trùng lặp hoặc đã lạc hậu so với những nghiên cứu đã được công bố ở nước ngoài. - Điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trong các trường phổ thông còn thiếu thốn, chưa đồng bộ. - Sự gắn kết giữa trường phổ thông với các trường cao đẳng, đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức khoa học công nghệ (sở khoa học và công nghệ; Liên hiệp các hội khoa học-kỹ thuật, các doanh nghiệp khoa học công nghệ; các trung tâm nghiên cứu, thực nghiệm khoa học - kỹ thuật; ...) trong quá trình tổ chức cho học sinh nghiên cứu còn chưa chặt chẽ và thường xuyên. Các trường phổ thông chưa tranh thủ được nhiều nguồn lực của các trường đại học, việc nghiên cứu, các cơ sở khoa học công nghệ về người hướng dẫn, các nhà khoa học chuyên ngành, cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí nghiệm, kinh phí... cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh. - Cơ chế, chính sách dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh như kinh phí, chế độ đãi ngộ cho giáo viên làm công tác hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học còn chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa tạo được động lực bên trong cho cả giáo viên và học sinh trong hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật. PHẦN II: HƯỚNG DẪN HỌC SINH NCKH (Trong phạm vi cuộc thi KH-KT của học sinh phổ thông) 1. Xác định nhóm nghiên cứu: - Một đề tài có thể do 1 đến 2 học sinh nghiên cứu. - Nhóm nghiên cứu phải hội tụ: + Thường là học sinh lớp 9 hoặc 11, 12 với học lực từ loại khá trở lên. + Có năng lực tìm tòi, khám phá, sáng tạo và thích NCKH. + Có những hiểu biết cơ bản về lĩnh vực nghiên cứu. 2. Hướng dẫn học sinh xác định vấn đề nghiên cứu: - Đặt và trả lời các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Phải làm gì? Làm như thế nào? Nghiên cứu vấn đề sẽ đáp ứng mục tiêu gì?... - Hình thành vấn đề nghiên cứu một cách sáng tỏ, mạch lạch và có hướng giải quyết. 3. Đặt tên đề tài: - Tên đề tài phải sáng rõ, cô đọng, không quá dài. - Tên đề tài phải hàm chứa mục tiêu, nội dung và hướng nghiên cứu. - Tránh đặt tên đề tài như: Mang nhiều nghĩa, thử bàn, bước đầu nghiên cứu, một vài vấn đề, phát huy hơn nữa 4. Xây dựng thuyết minh đề cương nghiên cứu: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: - Lý do về pháp lý. - Lý do về lý luận. - Lý do về thực tiễn. - Nêu tầm quan trọng và tính cấp thiết khi nghiên cứu đề tài. 2. Mục tiêu nghiên cứu: - Mục tiêu nghiên cứu là cái đích cần giải quyết của đề tài (phân biệt với mục đích). - Mục tiêu của đề tài phải ngắn gọn, rõ ràng. - Mục tiêu của đề tài phải mang tính khả thi và có giới hạn nhất định theo quy mô của đề tài. 3. Nội dung nghiên cứu: - Nội dung nghiên cứu là đặt là nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề gì trong phạm vi của đề tài. - Nội dung nghiên cứu phải bám sát mục tiêu nghiên cứu vì vậy đòi hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng và mang tính khả thi. - Xác định nội dung nghiên cứu đúng sẽ định hướng cho việc hình thành các chương trong phần nội dung. 4. Giả thuyết nghiên cứu: - Là đặt ra giả định đề tài nghiên cứu thành công sẽ giải quyết được vấn đề theo dự kiến khoa học. - Xác định giả thuyết phải bám sát mục tiêu và nội dung nghiên cứu. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu và sự vật, hiện tượng, hoạt động mà nhóm nghiên cứu trực tiếp khám phá, phân tích, đánh giá và kết luận. - Phạm vi nghiên cứu là giới hạn về không gian, thời gian, đối tượng nghiên cứu theo quy mô của đề tài. 6. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu là hệ thống cách thức, phương tiện tiếp cận giải quyết vấn đề nhằm đáp ứng mục tiêu và nội dung nghiên cứu. - Mỗi đề tài có hệ thống phương pháp nghiên cứu khác nhau. 7. Kế hoạch nghiên cứu: - Kế hoạch nghiên cứu là toàn bộ lộ trình từ khi bắt đầu đến khi hoàn thiện việc triển khai nghiên cứu một đề tài. - Kế hoạch nghiên cứu phải liệt kế toàn bộ công việc của quá trình nghiên cứu. Trong đó thể hiện rõ: Nội dung công việc; yêu cầu cần đạt; ai làm; thời gian bắt đầu và kết thúc; dự kiến kinh phí (nếu có) và rủi ro. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu: - Điểm qua những công trình nghiêu cứu của các tác giả đi tr ... (nếu có). + Dự toán kinh phí (nếu có) (Kèm theo bản thuyết minh NC theo mẫu quy định – nếu là một đề tài NCKH được cấp kinh phí) 9. Dự thảo nội dung nghiên cứu : Nêu những nội dung cụ thể mà đề tài tiến hành, phần này có thể ghi rõ cấu trúc của báo cáo khoa học. Có thể nêu cấu trúc theo phần như sau : Phần I : Mở đầu Phần II: Kết quả nghiên cứu (Nội dung nghiên cứu) có thể gồm nhiều chương Chướng 1: Tổng quan hay cơ sở lý luận của đề tài. Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. Chương 3: Thực nghiệm khoa học và kết quả TN (Những giải pháp để giải quyết vấn đề NC đặt ra) hoặc những giải pháp đã giải quyết của vấn đề NC. Phần III: Những kết luận, đề xuất và kiến nghị. 4.2. Viết báo cáo kết quả nghiên cứu : 4.2.1. Cấu trúc báo cáo kết quả nghiên cứu Kết cấu chung của báo cáo kết quả NC thường được trình bày theo mẫu sau: Báo cáo được trình bày trên khổ giấyA4, đánh máy một mặt. Nếu sử dụng chương trình sọan thảo Microsoftword, version 6.0 thì dùng khổ chữ 13,0 -13,5, top: 2cm; bottom : 2cm; left : 3,5 cm; right : 2cm. Báo cáo dù sắp xếp chương mục như thế nào cũng phải thể hiện được những bộ phận và với nội dung cơ bản sau : + Bìa Gồm bìa chính và bìa phụ hoàn toàn giống nhau và được viết theo thứ tự từ trên xuống như sau : - Tên cơ quan chủ trì đề tài, thuộc chương trình, dự án (nếu có) - Tên tác giả. - Tên đề tài, in bằng chữ lớn (font 18-25) - Địa danh và tháng, năm bảo vệ công trình. Ở trang bìa phụ, sau tên đề tài, trên phần địa danh năm tháng, ghi tên người hướng dẫn (nếu có). + Trang ghi ơn Trang trong này tác giả hoặc tập thể tác giả có thể ghi lời cảm ơn đối với một cơ quan đỡ đầu đề tài hay luận văn ( nếu có), hoặc ghi ơn một cá nhân, không lọai trừ người thân, những người đã có nhiều công lao đối với công trình nghiên cứu. + Mục lục Mục lục thường được đặt phía đầu sách, tiếp sau bìa phu và lời ghi ơn. + Ký kiệu và viết tắt (nếu có) Liệt kê theo thứ tự vần chữ cái những ký hiệu và chữ viết tắt trong báo cáo để người đọc tiện tra cứu. + Cách ghi tiểu mục: Trong mỗi chương phải có các tiểu mục được đánh số theo số la tinh: 1,2,3 Mỗi mục lớn nếu có từ 2 tiểu mục nhỏ trở lên thì đánh số: 1.1.; 1.2.; 1.3.; .. Nếu có tiểu mục nhỏ hơn trong mỗi mục nhỏ thì viết: 1.1.1.; 1.1.2.; ..2.1.1.; 2.1.2.;.. tiểu mục nhỏ nhất không quá 4 chữ số (1.1.1.1.;). Nếu đã có tiểu mục nhỏ 1.1.1 thì buộc phải có tiểu mục 1.1.2. 9.2.2. Nội dung báo cáo kết quả nghiên cứu: Phần I : Mở đầu (Một số vấn đề chung) Lời nói đầu (viết thành một đoạn luận, không chia mục) cho biết một cách rất vắn tắt lý do và bối cảnh của đề tài :Tổng quan lịch sử nghiên cứu, những chỗ trống trong các nghiên cứu trước đây và quan điểm lựa chọn vấn đề nghiên cứu. Trình bày vắn tắt họat động nghiên cứu. Cơ sở lý thuyết được sử dụng, bao gồm cả cơ sở lý thuyết kế thừa của người đi trước và cơ sở lý thuyết tự mình xây dựng. Mô tả các phương pháp nghiên cứu đã được thực hiện, ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn của đề tài. Mục đích nghiên cứu và kết quả đạt được những vấn đề tồn tại, những dự kiến sau nghiên cứu. Cũng có thể viết phần những vấn đề chung theo cấu trúc đề cương NC (có chia mục): 1) Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu: + Lí do về mặt lí luận + Lí do về mặt thực tiễn 2) Mục đích nghiên cứu: (để làm gì?) 3) Đối tượng nghiên cứu ( môn học nào? họat động nào? quản lí nguồn lực nào?) 4) Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi xét về mặt quy mô: một hoặc những khía cạnh nào của đối tượng nghiên cứu? + Phạm vi không gian: giới hạn không gian của đối tượng nghiên cứu – ở đâu?. + Phạm vi thời gian của đối tượng nghiên cứu – thời gian nào? 5) Phương pháp nghiên cứu: Nêu các phương pháp chủ yếu sẽ được sử dụng. Trong phần cuối của phần mở đầu, tác giả không nên quên viết mấy dòng cảm ơn đối với những cơ quan, thầy hướng dẫn và những nhân vật chính có sự giúp đỡ đặc biệt đối với báo cáo. Phần II : Nội dung nghiên cứu Chương I : Tổng quan (Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu) Phần này là một chương tiếp sau lời nói đầu, thường nêu những cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu (bằng PPNC phân tích, tổng hợp) Chương II : Nội dung nghiên cứu và kết quả.(Thực trạng vấn đề nghiên cứu) - Phần này có thể trình bày trong một chương hoặc một số chương -Trình bày những giả thuyết và phướng pháp kiểm chứng. Nếu có những thí nghiệm hay thực nghiệm khác nhau thì cần mô tả thí nghiệm, cách tiến hành thực nghiệm và trình bày kết quả đạt được. - Trình bày những kết quả đạt được về mặt lý thuyết và kết quả áp dụng. - Thảo luận, bình luận kết quả và nêu những vấn đề chưa được giải quyết. Chương III: Thực nghiệm sư phạm (nếu có) và thảo luận kết quả (Những giải pháp về vấn đề nghiên cứu) - Trình bày các hoạt động tổ chức thực nghiệm (VD - Tổ chức dạy đối chứng) - Rút ra những nhận xét và đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm.. - Hoặc nêu các nhóm giải pháp đã (sẽ) làm cho vấn đề NC đạt hiệu quả, (kết quả, chất lượng cao hơn). Phần III: Kết luận và khuyến nghị (kiến nghị) Phần này thường không đánh số chương, nhưng là một phần tách riêng. Theo thông lệ thì phần này nằm cuối của báo cáo, nhưng có nhiều tổ chức NC lại có thói quen đặt phía trước báo cáo và đánh số là Chương I, bao gồm các nội dung : Kết luận về toàn bộ công cuộc nghiên cứu. Các khuyến nghị rút ra từ kết quả nghiên cứu. Tài liệu tham khảo Ghi theo thứ tự vần chữ cái theo mẫu trình bày sau : 1. Sách tham khảo :Có thể ghi theo thứ tự sách tham khảo theo mức độ quan trọng giảm dần. [TT]- Tên tác giả; tên sách; NXB, năm xuất bản. 2. Tạp chí : [TT]- Tên tạp chí, Tên tác giả; tên bài, trang. 3. Báo hàng ngày. Hiện nay có thể sử dụng cấu trúc sau đây để viết báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài của học sinh: 1. HÌNH THỨC TIỂU LUẬN MỤC LỤC MỞ ĐẦU: 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Mục tiêu đề tài 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu Chương1: .. 1.1. .. 1.1.1. . 1.1.2. . 1.1.3. . 1.2. .. 1.2.1. .. 1.2.2. .. 1.2.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 2: . . 2.1. .. 2.1.1. 2.1.2. 2.2. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 4.2.3. YÊU CẦU VỀ SOẠN THẢO VĂN BẢN Sử dụngchữ (font) thuộc mã UNICODE, kiểu chữ chân phương, dễ đọc. Đối với phần nội dung (văn bản), dùng cỡ 14 của loại chữ Times New Roman hoặc tương đương. Cỡ chữ của tên chương và tên đề mục có thể chọn lớn hơn, cỡ chữ của tên chương phải lớn hơn cỡ chữ của tên đề mục. Kiểu chữ, cỡ chữ, khoảng cách thụt vào đầu dòng phải giống nhau trong toàn bộ TIỂU LUẬN. Quy định này cũng được áp dụng cho tên các hình vẽ hay tên các bảng biểu. Mật độ chữ bình thường, không được nén hoặc kéo dãn khoảng cách giữa các chữ. Dãn dòng đặt ở chế độ 1,5 lines và 1 trang có 27 dòng. Quy định về bề rộng lề của trang soạn thảo: lề trên 3,5 cm; lề dưới 3 cm; lề trái 3,5 cm; lề phải 2 cm. Khoảng cách giữa mục 1.1 so với mục 1.1.1 là 10mm; và các đề mục cùng cấp phải có kiểu trình bày giống nhau trong toàn bộ luận văn. 4.2.4. CÁCH CHÚ DẪN XUẤT XỨ CỦA NỘI DUNG ĐƯỢC TRÍCH TỪ TÀI LIỆU THAM KHẢO Mọi ý kiến, khái niệm có ý nghĩa, mang tính chất gợi ý không phải của riêng tác giả và mọi tham khảo khác phải được trích dẫn và chỉ rõ nguồn trong danh mục tài liệu tham khảo. Không trích dẫn những kiến thức phổ biến, mọi người đều biết cũng như không làm luận văn nặng nề với những tham khảo trích dẫn. Việc trích dẫn, tham khảo chủ yếu nhằm thừa nhận nguồn của những ý tưởng có giá trị và giúp người đọc theo được mạch suy nghĩ của tác giả, không làm trở ngại việc đọc. Nếu không có điều kiện tiếp cận được một tài liệu gốc mà phải trích dẫn thông qua một tài liệu khác thì phải nêu rõ cách trích dẫn này, đồng thời tài liệu gốc đó được liệt kê trong danh mục Tài liệu tham khảo. Khi cần trích dẫn một đoạn ít hơn hai câu hoặc bốn dòng đánh máy thì có thể sử dụng dấu ngoặc kép để mở đầu và kết thúc phần trích dẫn. Nếu cần trích dẫn dài hơn thì phải tách phần này thành một đoạn riêng khỏi phần nội dung đang trình bày, với lề trái lùi vào thêm 2 cm. Khi này mở đầu và kết thúc đoạn trích này không phải sử dụng dấu ngoặc kép. Việc chú dẫn tài liệu tham khảo trong luận văn phải theo số thứ tự của tài liệu ở danh mục tài liệu tham khảo và được đặt trong ngoặc vuông, khi cần có cả số trang, ví dụ [15, tr. 314-315]. Đối với phần được trích dẫn từ nhiều tài liệu khác nhau, số của từng tài liệu được đặt độc lập trong từng ngoặc vuông, theo thứ tự tăng dần, ví dụ: [19], [25], [41], [42]. 9.2.5. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tham khảo được xếp riêng theo từng ngôn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung, Nhật,) nhưng có số thứ tự được đánh liên tục. Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải giữ nguyên văn, không phiên âm, không dịch, kể cả tài liệu bằng tiếng Trung Quốc, Nhật (đối với những tài liệu bằng ngôn ngữ còn ít người biết có thể thêm phần dịch tiếng Việt đi kèm theo mỗi tài liệu). Tài liệu tham khảo xếp theo thứ tự ABC: a. Đối với các văn bản chung (luật, hiến pháp) thì xếp theo chữ cái đầu tiên của văn bản. b. Đối với các công trình, tác phẩm của các tác giả cụ thể: - Tác giả là người nước ngoài: xếp thứ tự ABC theo họ. - Tác giả là người Việt Nam: xếp thứ tự ABC theo tên nhưng vẫn giữ nguyên thứ tự thông thường của tên người Việt Nam, không đảo tên lên trước họ. - Tài liệu không có tên tác giả thì xếp theo thứ tự ABC từ đầu của tên cơ quan ban hành báo cáo hay ấn phẩm, ví dụ: Tổng cục Thống kê xếp vào vần T, Bộ Giáo dục và Đào tạo xếp vào vần B, v.v Đối với tài liệu tham khảo là sách, luận văn, báo cáo, phải ghi đầy đủ các thông tin sau: · tên tác giả hoặc cơ quan ban hành (không có dấu ngăn cách) · (năm xuất bản), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn) · tên sách, luận văn hoặc báo cáo, (in nghiêng, dấu phẩy cuối tên) · nhà xuất bản, (dấu phẩy cuối tên nhà xuất bản) · nơi xuất bản. (dấu chấm kết thúc tài liệu tham khảo) Đối với tài liệu tham khảo là bài báo trong tạp chí, bài báo trong một cuốn sách, phải ghi đầy đủ các thông tin sau: · tên các tác giả (không có dấu ngăn cách) · (năm công bố), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn) · “tên bài báo”, (đặt giữa cặp ngoặc kép, không in nghiêng, dấu phẩy cuối tên) · tên tạp chí hoặc tên sách, (in nghiêng, dấu phẩy cuối tên) · tập (không có dấu ngăn cách) · (số), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn) · các số trang. (gạch ngang giữa hai chữ số, dấu chấm kết thúc) Ví dụ: Nguyễn Văn Dương (2006), Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr.23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.7-9. Đối với tài liệu tham khảo là tài liệu được đăng tải trên các trang web, cần phải ghi địa chỉ cụ thể cho phép truy cập trực tiếp đến tài liệu kèm theo ngày truy cập. Cần chú ý những chi tiết về trình bày nêu trên. Nếu tài liệu dài hơn một dòng thì nên trình bày sao cho từ dòng thứ hai lùi vào so với dòng thứ nhất 1 cm để danh mục tài liệu tham khảo được rõ ràng và dễ theo dõi.
Tài liệu đính kèm: