Giáo án Ngữ văn khối 11 - Từ ấy

Giáo án Ngữ văn khối 11 - Từ ấy

Tố Hữu là nhà thơ có vị trí rất quan trọng trong nền văn học cách mạng Việt Nam. Trong thơ Tố Hữu, cái Tôi trữ tỡnh, trẻ trung, sụi nổi và đầy nhiệt huyết là cái Tôi gắn với cách mạng, cái Tôi mang trong mỡnh lớ tưởng cộng sản. Với tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đó bắc chiếc cầu nối giữa hỡnh thức thơ mới với thơ ca yêu nước và cách mạng. Giữa lúc các nhà thơ mới cũn băn khoăn, cũn đắm mỡnh trong nỗi buồn đau, cô đơn tuyệt vọng, thỡ Tố Hữu với Từ ấy đó cất lờn khỳc hỏt ngợi ca lí tưởng cách mạng và tự tin khẳng định sự đúng đắn của con đường mỡnh đó chọn. Từ ấy thể hiện tõm trạng hỏo hức, tràn đầy niềm tin và hi vọng của người cộng sản trẻ tuổi.

 lí tưởng cộng sản. 1939. Năm 1930, Đảng Cộng sản ra đời, lónh đạo nhân dân thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tố Hữu thuộc lớp thanh niên sớm được giác ngộ cách mạng. Và người thanh niên với trái tim tuổi hai mươi đang căng đầy sự sống đó đến với cách mạng bằng niềm phấn khích của người vừa tỡm thấy con đường lí tưởng của đời mỡnh. Nhõn vật trữ tỡnh của bài thơ là người cộng sản trẻ tuổi với quan niệm cao đẹp về lí tưởng sống Đặt bài thơ vào hoàn cảnh xó hội, chớnh trị, văn hoá thời điểm nó ra đời mới hiểu và lí giải được những cung bậc cảm xúc mónh liệt của nhõn vật trữ tỡnh. Bài thơ ra đời vào thời kỡ cỏch mạng Dõn tộc dõn chủ 1936

 

doc 100 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 1423Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án Ngữ văn khối 11 - Từ ấy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Từ ấy của Tố Hữu
Từ ấy
Tỏc giả: Tố Hữu
Tố Hữu là nhà thơ cú vị trớ rất quan trọng trong nền văn học cỏch mạng Việt Nam. Trong thơ Tố Hữu, cỏi Tụi trữ tỡnh, trẻ trung, sụi nổi và đầy nhiệt huyết là cỏi Tụi gắn với cỏch mạng, cỏi Tụi mang trong mỡnh lớ tưởng cộng sản. Với tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đó bắc chiếc cầu nối giữa hỡnh thức thơ mới với thơ ca yờu nước và cỏch mạng. Giữa lỳc cỏc nhà thơ mới cũn băn khoăn, cũn đắm mỡnh trong nỗi buồn đau, cụ đơn tuyệt vọng, thỡ Tố Hữu với Từ ấy đó cất lờn khỳc hỏt ngợi ca lớ tưởng cỏch mạng và tự tin khẳng định sự đỳng đắn của con đường mỡnh đó chọn. Từ ấy thể hiện tõm trạng hỏo hức, tràn đầy niềm tin và hi vọng của người cộng sản trẻ tuổi. 
 lớ tưởng cộng sản.- 1939. Năm 1930, Đảng Cộng sản ra đời, lónh đạo nhõn dõn thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập dõn tộc. Tố Hữu thuộc lớp thanh niờn sớm được giỏc ngộ cỏch mạng. Và người thanh niờn với trỏi tim tuổi hai mươi đang căng đầy sự sống đó đến với cỏch mạng bằng niềm phấn khớch của người vừa tỡm thấy con đường lớ tưởng của đời mỡnh. Nhõn vật trữ tỡnh của bài thơ là người cộng sản trẻ tuổi với quan niệm cao đẹp về lớ tưởng sống -Đặt bài thơ vào hoàn cảnh xó hội, chớnh trị, văn hoỏ thời điểm nú ra đời mới hiểu và lớ giải được những cung bậc cảm xỳc mónh liệt của nhõn vật trữ tỡnh. Bài thơ ra đời vào thời kỡ cỏch mạng Dõn tộc dõn chủ 1936  
I/ Tỡm hiểu chung
1. Tỏc giả
 Huế. Tốt nghiệp Thành chung (cũ).-Tố Hữu (1920 - 2002), tờn khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh tại Hội An, quờ ở làng Phự Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiờn  
Tố Hữu sinh ra trong một gia đỡnh nhà nho nghốo, từ sỏu, bảy tuổi Tố Hữu đó học và tập làm thơ. ễng giỏc ngộ cỏch mạng trong thời kỡ Mặt trận Dõn chủ và trở thành người lónh đạo Đoàn Thanh niờn Dõn chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiờn của Tố Hữu được sỏng tỏc từ những năm 1937 - 1938. Thỏng 4 - 1939, ụng bị thực dõn Phỏp bắt, giam giữ ở cỏc nhà lao miền Trung và Tõy Nguyờn. Thỏng 3 - 1942, Tố Hữu vượt ngục ĐacLay, tiếp tục hoạt động cỏch mạng bớ mật đến năm 1945. ễng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Trung ương và Chớnh phủ.
Tỏc phẩm đó xuất bản : Từ ấy (thơ, 1946), Việt Bắc (thơ, 1954), Giú lộng (thơ, 1961), Mỏu và hoa (thơ, 1971), Ra trận (thơ, 1972), Một tiếng đờn (thơ, 1992), Xõy dựng một nền văn nghệ lớn xứng đỏng với nhõn dõn ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973), Cuộc sống cỏch mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981).
Giải thưởng văn học : giải Nhất Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam 1954 - 1955 (tập thơ Việt Bắc) ; Giải thưởng Hồ Chớ Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, 1996) ; Giải thưởng văn học ASEAN (1999).
Tố Hữu là nhà thơ trữ tỡnh chớnh trị. ở ụng, con người chớnh trị và con người thi sĩ thống nhất làm một. Chặng đường thơ của ụng gắn liền với những chặng đường cỏch mạng của cả dõn tộc. Mỗi tập thơ của ụng đỏnh dấu một giai đoạn lịch sử của đất nước. Cả sự nghiệp sỏng tỏc thơ ca của mỡnh, ụng dành trọn vẹn cho cảm hứng cỏch mạng vỡ thế thơ ụng luụn sục sụi ý chớ cỏch mạng. Chỉ đến tập thơ cuối đời, tập Một tiếng đờn, thơ ụng mới lắng xuống với giọng điệu thõm trầm đầy trải nghiệm.
2. Tỏc phẩm
Từ ấy là tập thơ đầu tiờn của Tố Hữu, tập hợp những sỏng tỏc của ụng từ 1937 đến 1946, thể hiện niềm say mờ lớ tưởng và niềm khỏt khao chiến đấu hi sinh cho cỏch mạng. Tập thơ gồm ba phần : Mỏu lửa, Xiềng xớch, Giải phúng. Bài Từ ấy rỳt từ phần Mỏu lửa.
II/ Đọc-hiểu văn bản
1. Niềm vui sướng say mờ của nhõn vật trữ tỡnh khi gặp lý tưởng của Đảng
Khổ thơ đầu tiờn của bài thơ diễn tả tõm trạng vui sướng của nhõn vật trữ tỡnh tỏc giả khi bắt gặp lớ tưởng cộng sản :
Từ ấy trong tụi bừng nắng hạ
Mặt trời chõn lớ chúi qua tim
Hồn tụi là một vườn hoa lỏ
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
 nơi chõn lớ chúi sỏng. Bắt gặp ỏnh sỏng ấy, tõm hồn người thanh niờn trẻ tuổi bừng dậy sức sống, nú được vớ như một vườn cõy đầy sức sống. Nhịp thơ dồn dập, cõu thơ nối dũng đó thể hiện thành cụng tõm trạng vui mừng của nhõn vật trữ tỡnh. Đú là tõm trạng lạc quan tin tưởng vào con đường cỏch mạng của người thanh niờn trẻ chưa gặp thất bại và những gian khổ trờn con đường hoạt động cỏch mạng.-Một vấn đề chớnh trị, vấn đề lớ tưởng sống, nhưng đó được tỏc giả thể hiện bằng một hỡnh thức “rất đỗi trữ tỡnh”. Niềm vui được thể hiện một cỏch tự nhiờn và thành thực. “Từ ấy” là từ khi được giỏc ngộ cỏch mạng, được dẫn dắt vào con đường đấu tranh giải phúng dõn tộc. Cựng thời với nhõn vật trữ tỡnh, những năm ba mươi ấy, khi mà cỏch mạng Việt Nam cũn hoạt động bớ mật, cú rất nhiều thanh niờn Việt Nam cú tấm lũng yờu nước thương nũi, nhưng họ đó khụng thể hoặc khụng cú cơ hội để đến với cỏch mạng. Lớp thanh niờn ấy đó rơi vào tõm trạng bế tắc, chỏn chường, người thỡ tỡm đến với thế giới cụ đơn, người lại tỡm đến với thế giới tưởng tượng để trốn trỏnh hiện thực hoặc tỡm quờn bằng những cỏch của riờng mỡnh. Tõm trạng bế tắc của lớp thanh niờn ấy được thể hiện rất rừ trong thơ mới. Nhõn vật trữ tỡnh của bài thơ may mắn hơn. Anh đó tỡm ra con đường đi cho cuộc đời mỡnh, đú là con đường chung của cả dõn tộc. Để thể hiện niềm vui ấy, nhà thơ đó chọn dựng một loạt từ ngữ gợi hỡnh và gợi cảm : bừng (nắng hạ), chúi (qua tim), rất đậm (hương), rộn (tiếng chim). Đõy đều là những từ ngữ cú khả năng biểu hiện trạng thỏi mạnh của sự vật, sự việc. Nú vừa đột ngột, vừa mạnh mẽ, vừa sụi nổi và sõu sắc. Vỡ thế nú thể hiện được trạng thỏi cảm xỳc hưng phấn của nhõn vật trữ tỡnh. Khổ thơ như tiếng reo vui đầy phấn chấn. ỏnh sỏng của cỏch mạng chúi sỏng như “nắng hạ”, như “mặt trời” soi đường cho nhõn vật trữ tỡnh. Khi đất nước mất chủ quyền, nhõn dõn sống trong lầm than nụ lệ, cả dõn tộc như chỡm trong đờm tối, mỗi người phải tự dũ dẫm để tỡm ra con đường sống cho mỡnh. Cỏch mạng đó soi đường cho người chiến sĩ trẻ. Cỏch mạng khụng chỉ là ngọn đốn mà là “mặt trời”  
Sau giõy phỳt đầy hào hứng và vui mừng, tõm trạng nhõn vật trữ tỡnh tạm lắng xuống, suy tư hơn. Hai khổ thơ tiếp theo thể hiện nhận thức của nhõn vật trữ tỡnh về con đường cỏch mạng mỡnh đó chọn. Đú là sự thức tỉnh về mối quan hệ tỡnh cảm cỏch mạng, tỡnh cảm dõn tộc. Cựng thời với Tố Hữu, nhưng khi chưa đến được với cỏch mạng, nhà thơ Chế Lan Viờn viết :
Hóy cho tụi một tinh cầu giỏ lạnh
Một vỡ sao trơ trọi cuối trời xa
Xuõn Diệu thỡ cực đoan : 
Ta là Một, là Riờng, là Thứ Nhất
Khụng cú chi bố bạn nổi cựng ta 
Cũn Huy Cận thỡ cảm thấy bơ vơ, nhỏ nhoi trước cảnh “sụng dài, trời rộng, bến cụ liờu” với tõm trạng “lũng quờ dợn dợn vời con nước”. Tiến bộ như người li khỏch ra đi vỡ chớ nhớn nhưng vẫn đượm buồn và phảng phất nỗi lẻ loi đơn độc :
Li khỏch ! Li khỏch con đường nhỏ
Chớ nhớn chưa về bàn tay khụng...
Đú là tõm trạng của những thanh niờn chưa tỡm được vị trớ của mỡnh trong lũng dõn tộc, chưa cú tỡnh cảm cỏch mạng. Vẫn là một cỏi Tụi cỏ nhõn Sau khi bừng ngộ, phục sinh là sự đổi đời: 
Tụi buộc lũng tụi với mọi người
Để tỡnh trang trải với trăm nơi
Để hồn tụi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thờm mạnh khối đời.
Khi được giỏc ngộ cỏch mạng, nhõn vật Tụi coi như mỡnh đó thuộc về dõn tộc, về nhõn dõn. Cỏi Tụi ấy khụng cũn tỏch rời mà hoà trong cỏi Ta chung của cả dõn tộc để tạo nờn khối đại đoàn kết, làm nờn sức mạnh dõn tộc. Đõy là một nhận thức đỳng đắn, thể hiện sự giỏc ngộ cỏch mạng sõu sắc của nhà thơ. Nhà thơ đó lựa chọn những hỡnh ảnh và từ ngữ cú khả năng biểu hiện rừ mối quan hệ tỡnh cảm cỏch mạng : buộc, trang trải, gần gũi, khối đời. Những từ ngữ ấy đó cụ thể hoỏ tỡnh cảm cỏch mạng vốn là những khỏi niệm rất trừu tượng.
nhưng nhõn vật trữ tỡnh trong Từ ấy thỡ khỏc hẳn. Anh đó ý thức rất rừ mối quan hệ tỡnh cảm của mỡnh với nhõn dõn
2. Những nhận thức về lẽ sống
Sau khi bừng ngộ, phục sinh là sự đổi đời: 
Tụi buộc lũng tụi với mọi người
Để tỡnh trang trải với trăm nơi
Để hồn tụi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thờm mạnh khối đời.
Khi được giỏc ngộ cỏch mạng, nhõn vật Tụi coi như mỡnh đó thuộc về dõn tộc, về nhõn dõn. Cỏi Tụi ấy khụng cũn tỏch rời mà hoà trong cỏi Ta chung của cả dõn tộc để tạo nờn khối đại đoàn kết, làm nờn sức mạnh dõn tộc. Đõy là một nhận thức đỳng đắn, thể hiện sự giỏc ngộ cỏch mạng sõu sắc của nhà thơ. Nhà thơ đó lựa chọn những hỡnh ảnh và từ ngữ cú khả năng biểu hiện rừ mối quan hệ tỡnh cảm cỏch mạng : buộc, trang trải, gần gũi, khối đời. Những từ ngữ ấy đó cụ thể hoỏ tỡnh cảm cỏch mạng vốn là những khỏi niệm rất trừu tượng.
3. Sự chuyển biến sõu sắc trong tỡnh cảm của Tố Hữu
Quan niệm về lớ tưởng cộng sản của nhà thơ được thể hiện rừ hơn ở khổ thơ cuối :
Tụi đó là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phụi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Khụng ỏo cơm, cự bất cự bơ
Nhõn vật trữ tỡnh đó ý thức rừ trỏch nhiệm của mỡnh đối với dõn tộc khi anh dấn thõn vào con đường cỏch mạng. Làm người cỏch mạng thỡ bản thõn mỡnh khụng cũn là của riờng mỡnh nữa. Người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đó đặt lờn vai mỡnh nhiệm vụ cỏch mạng cao cả. Và anh đó sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cỏch mạng. Là “con”, là “em”, là “anh” của những người cựng khổ, anh đó tự nguyện gắn mỡnh vào mối quan hệ mỏu thịt với họ, những người đó và đang chịu cảnh nụ lệ lầm than. Và chớnh những con người ấy là lực lượng nũng cốt của cỏch mạng.
Người chiến sĩ trẻ hoàn toàn tin tưởng vào con đường mỡnh đó chọn. Thỏi độ của anh đầy quyết tõm và dứt khoỏt. Nhà thơ đó dựng biện phỏp lặp từ để biểu hiện thỏi độ dứt khoỏt của nhõn vật trữ tỡnh. Nhịp thơ mạnh cựng những từ được lặp lại để, là đó thể hiện ý chớ cỏnh mạng của người chiến sĩ trẻ.
Giọng điệu nổi bật của bài thơ là giọng vui tươi, dứt khoỏt, hào hứng và đầy quyết tõm. Đú là giọng điệu thể hiện niềm hạnh phỳc của người thanh niờn đó tỡm ra con đường đỳng đắn của cuộc đời mỡnh. 
Từ ấy thuộc phần Mỏu lửa, phần đầu của tập thơ Từ ấy. Bài thơ được sỏng tỏc trong những ngày đầu tham gia cỏch mạng. Dự đó đi trờn con đường cỏch mạng, đó nhận thức được nhiệm vụ, trỏch nhiệm của người cộng sản và phần nào hỡnh dung được những gian khổ của cuộc đời cỏch mạng, nhưng lại chưa phải trải qua những giam cầm, đày ải và sự khắc nghiệt thực sự của cuộc đấu tranh giải phúng dõn tộc, vỡ vậy giọng thơ là giọng điệu lạc quan, tin tưởng và tràn đầy niềm tin hi vọng. Nhưng cũng chớnh niềm lạc quan cỏch mạng ấy đó làm nờn sức mạnh để người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi cú đủ sức mạnh vượt qua những gian nan khổ cực của cuộc đời hoạt động cỏch mạng sau này.
Với Từ ấy, nhà thơ Tố Hữu đó mang đến cho thơ ca Việt Nam một giọng thơ mới, giọng thơ trẻ trung, đầy niềm tin cỏch mạng. Bài thơ đó giỳp cho thế hệ sau cú cơ hội hiểu rừ hơn về một thời gian khổ nhưng đỏng tự hào của dan tộc mỡnh. Nú cũng gúp phần lớ giải vỡ sao dõn tộc Việt Nam lại cú đủ sức mạnh để chiến thắng những kẻ thự mạnh hơn mỡnh như vậy. 
III/ Tổng kết
1. Nội dung
Từ ấy thể hiện niềm hạnh phỳc vụ bờ của một thnah niờn trẻ tuổi bắt gặp lý tưởng cỏch mạng, tỡm ra con đường đi đỳng đắn cho mỡnh. Bài thơ là niềm say mờ là khỏt vọng cống hiến trọn đời cho nhõn dõn, cho sự nghiệp giải phúng dõn tộc. Nhà thơ đó đưa ra một quan niệm sống đỳng đắn, đú là quan niệm sống đỳng đắn, đú là quan niờm sống vỡ cộng đồng, vỡ dõn tộc.
Những hỡnh ảnh thơ giàu giỏ trị  ... ưng trước cõu keo (gọi là Mưỡu hậu). Mưỡu cú thể gồm 2 cõu ( Mưỡu đơn) hay 4 cõu (Mưỡu kộp). Bài Vịnh Kiều của Nguyễn Cụng Trứ dưới đõy dụi khổ (dài hơn 11 cõu) và cú Mưỡu hậu đơn : 
VỊNH KIỀU 
1- Đài tước mở toang cơn Tạo hoỏ 
2- Phớm loan xe trỏi mối cương thường 
3- Ngỏn cho Kiều khi lỡ bước Sõm Thương 
4- Cung đàn nguyệt dõy loan cũn mắc mói 
(4 cõu dụi khổ): 
Đờm thanh vắng gọi Võn ngồi dậy 
Bức khăn là phong mở nguồn cơn 
Đem lời thệ hải minh sơn 
Non nước ấy cậy em gỏnh vỏc 
5-Thơ rằng : Vỡ hiếu để tỡnh nờn chếch mỏc 
6- Chưa duyờn mà nợ khộo đa mang 
7- Mảnh gương thề soi với khỏch văn chương 
8- Mựi hương ngỏt cũng nhờ em rơi đến chị 
9- Này con tạo ghột ghen chi lắm bấy ? 
10- Cỏi hồng nhan gẫm lại cũng buồn cười (cõu xếp) 
(2 cõu Mưỡu hậu đơn): 
Ấy ai trõm quạt thề bồi 
Thấu tỡnh hay chẳng hỡi người Liờu Tõy ? 
11- Trăng già khộo quấy chi ai ? (cõu keo) 
Nguyễn Cụng Trứ 
CHÚ í : Những cõu Mưỡu cú thể làm sai lạc qui tắc về cước vận đó trỡnh bày ở trờn , tuy nhiờn, cú điều bắt buộc phải theo là : Mưỡu hậu phải tiếp tục vần của cõu xếp để chuyển vần sang cõu keo ( cười, bồi, người, Tõy, ai ở cuối bài) . 
(Sưu tầm)
Tư liệu: Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nụm Hồ Xuõn Hương
Thành ngữ và tục ngữ trong thơ nụm Hồ Xuõn Hương
Đặng Thanh Hũa
Người ta thường bảo “Nụm na là cha mách qué”, thờ́ nhưng với thơ Hụ̀ Xuõn Hương thì đó lại là mụ̣t ngoại lợ̀, bởi vì người đọc nhớ Xuõn Hương, yờu Xuõn Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ṍy. Nờ́u khụng có cái chṍt “nụm na”, “mách qué”, “xỏ xiờn” đõ̀y tinh quái này thì có lẽ đã khụng có mụ̣t Xuõn Hương đờ̉ cho người đời chiờm ngưỡng và tụn vinh Bà thành Bà chúa thơ Nụm trong làng thơ Viợ̀t Nam. Chính cái chṍt nụm na trong thơ của Bà đã tạo nờn mụ̣t chṍt men xúc tác mãnh liợ̀t trong lòng người đọc. Người ta ngõy ngṍt, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngụn ngữ “nhà quờ, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mõn mó, tṍp tờnh, lún phún, le te, chín mõm mòm,... Tṍt cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự trau chuụ́t, gọt giũa, khuụn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngụn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ṍy, người ta còn bắt gặp ở Bà mụ̣t biợ̀t tài nữa trong viợ̀c vọ̃n dụng tiờ́ng nói dõn gian trong thơ. Đó là viợ̀c đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho cõu thơ trở nờn giàu tính hình tượng, dờ̃ nhớ, và đụ̣c đáo hơn.
Qua sự khảo sát trong sụ́ 39 bài thơ trong tọ̃p Thơ Hụ̀ Xuõn Hương do tác giả Nguyờ̃n Lụ̣c tuyờ̉n chọn và giới thiợ̀u được Nhà xuṍt bản Văn học xuṍt bản năm 1987, chúng tụi đã phát hiợ̀n được 15 trường hợp có xuṍt hiợ̀n các yờ́u tụ́ của thành ngữ, tục ngữ trong những cõu thơ. Đõy quả là mụ̣t con sụ́ khụng nhỏ, nó cho thṍy thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nụm Hụ̀ Xuõn Hương có vị trí và vai trò đặc biợ̀t quan trọng như thờ́ nào. Quả là hiờ́m có mụ̣t nhà thơ nào lại quan tõm đặc biợ̀t đờ́n vai trò của ngụn ngữ dõn gian như Hụ̀ Xuõn Hương.
Viợ̀c đưa thành ngữ, tục ngữ vào tác phõ̉m đã được nhà thơ xử lí rṍt tinh tờ́, tài tình và nhuõ̀n nhuyờ̃n. Có những tác phõ̉m tuy rṍt ngắn nhưng chúng ta đã khụng khỏi ngạc nhiờn khi thṍy tác giả đã hai lõ̀n sử dụng đờ́n yờ́u tụ́ thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn như: Bài Mời trõ̀u có hai cõu thành ngữ xanh như lá và bạc như vụi được áp dụng trong cõu thơ "Đừng xanh như lá, bạc như vụi". Bài Khóc Tụ̉ng Cóc lại có hai cõu thành ngữ khác là nòng nọc đứt đuụi và gọt gáy bụi vụi được áp dụng trong hai cõu thơ “Nòng nọc đứt đuụi từ đõy nhé, Nghìn vàng khụn chuụ̣c dṍu bụi vụi”. Hoặc như ở bài Quan thị thì hai cõu thơ "Đụ́ ai biờ́t đó vụng hay trụ́c, Còn kẻ nào hay cuụ́ng với đõ̀u" lại chính là hai hình ảnh hờ́t sức ví von được rút ra từ hai cõu tục ngữ[/i] ngụ̀i lá vụng, chụ̉ng mụng lá trụ́c [/i]và đõ̀u trỏ xuụ́ng, cuụ́ng trỏ lờn. 
Thọ̃m chí có bài như bài Làm lẽ, chỉ với tám cõu thơ ngắn nhưng lại có tới ba cõu thành ngữ đã góp phõ̀n vào trong ṍy, đó là "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" lṍy từ ý của cõu thành ngữ năm thì mười hoạ; “Cụ́ đṍm ăn xụi, xụi lại hõ̉m" lṍy từ ý của cõu thành ngữ cụ́ đṍm ăn xụi; và cõu "Cõ̀m bằng làm mướn, mướn khụng cụng" lṍy từ ý của thành ngữ làm mướn khụng cụng. Ngoài ra, còn có những bài khác cũng được vọ̃n dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: "Tài tử văn nhõn ai đó tá?" (Tự tình I) lṍy ý của thành ngữ tài tử giai nhõn. "ṍy ai thăm ván cam lòng vọ̃y" (Tự tình III) lṍy ý thành ngữ thăm ván bán thuyờ̀n. "Bảy nụ̉i ba chìm với nước non" (Bánh trụi nước) ý của thành ngữ ba chìm bảy nụ̉i (bảy nụ̉i ba chìm). "Mỏi gụ́i chụ̀n chõn võ̃n muụ́n trèo" (Đèo Ba Dụ̣i) ý của thành ngữ mỏi gụ́i chụ̀n chõn. "Bán lợi mua danh nào những kẻ" (Chơi chợ chùa Thõ̀y) ý của thành ngữ bán lợi mua danh (mua danh bán lợi). Và "Đờm ngày lăn lóc đám cỏ hụi" (Con ụ́c nhụ̀i) từ ý của thành ngữ lăn lóc như cóc bụi vụi.
Qua mụ̣t sụ́ dõ̃n chứng trờn, chúng ta có thờ̉ thṍy rằng Hụ̀ Xuõn Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yờ́u thụng qua hai phương thức chính như sau: 
Phương thức thứ nhṍt là vọ̃n dụng trực tiờ́p thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lṍy nguyờn văn, nguyờn dạng những cõu thành ngữ, tục ngữ vụ́n có của dõn gian đờ̉ đưa vào thơ như trường hợp: xanh như lá, bạc như vụi (Đừng xanh như lá, bạc như vụi - Mời trõ̀u); nòng nọc đứt đuụi (Nòng nọc đứt đuụi từ đõy nhé - Khóc Tụ̉ng Cóc); năm thì mười hoạ, (Năm thì mười hoạ chăng hay chớ - Làm lẽ); cụ́ đṍm ăn xụi (Cụ́ đṍm ăn xụi, xụi lại hõ̉m - Làm lẽ); bảy nụ̉i ba chìm (Bảy nụ̉i ba chìm với nước non - Bánh trụi nước); mỏi gụ́i chụ̀n chõn (Mỏi gụ́i chụ̀n chõn võ̃n muụ́n trèo - Đèo Ba Dụ̣i); bán lợi mua danh (Bán lợi mua danh nào những kẻ - Chơi chợ chùa Thõ̀y). Cách xử lí này phải nói là tương đụ́i khó bởi vì nó đòi hỏi tác giả phải có mụ̣t khả năng cảm nhọ̃n hờ́t sức tinh tờ́ vờ̀ nghĩa của những cõu thành ngữ, tục ngữ mà họ định sử dụng đờ̉ xem nó có phù hợp với ý thơ mà mình định trình bày ở trong cõu và trong bài hay khụng. Đụ̀ng thời, tác giả cũng phải là người hờ́t sức giỏi vờ̀ khả năng xử lí ngụn từ đờ̉ có thờ̉ “ghép” những cõu thành ngữ, tục ngữ, vụ́n là mụ̣t “khụ́i từ ngữ đúc sẵn”, vào với những từ ngữ chủ quan riờng của mình đờ̉ tạo nờn mụ̣t cõu thơ hoàn chỉnh mà khụng bị cứng nhắc, gượng ép vờ̀ nghĩa cũng như vờ̀ võ̀n điợ̀u. 
Những khó khăn nói trờn đã được Hụ̀ Xuõn Hương xử lí thành cụng mụ̣t cách tuyợ̀t vời. Chúng ta thử lṍy mụ̣t ví dụ nhỏ trong sụ́ các ví dụ trờn thì sẽ thṍy rõ hơn biợ̀t tài của Bà trong vṍn đờ̀ này. Ví dụ trong bài Làm lẽ, đờ̉ miờu tả thõn phọ̃n hõ̉m hiu, thua thiợ̀t của người vợ lẽ trong cuụ̣c sụ́ng vợ chụ̀ng, tác giả đã sử dụng hai cõu thành ngữ năm thì mười hoạ và cụ́ đṍm ăn xụi trong hai cõu thơ "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" và "Cụ́ đṍm ăn xụi, xụi lại hõ̉m". Đụ́i với tiờ̀m thức văn hoá của người Viợ̀t thì hai cõu thành ngữ này vụ́n rṍt quen thuụ̣c vì nó thường được sử dụng đờ̉ nói tới sự trái khoáy, trớ trờu của mụ̣t điờ̀u gì đó. Vì vọ̃y trong trường hợp này phải nói rằng Xuõn Hương đã sử dụng nó rṍt hợp cảnh hợp tình.
Phương thức thứ hai là chỉ lṍy ý của thành ngữ, tục ngữ đờ̉ chuyờ̉n vào trong thơ chứ khụng áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ nhṍt. Chẳng hạn như: thăm ván bán thuyờ̀n (ṍy ai thăm ván cam lòng vọ̃y - Tự tình III); gọt gáy bụi vụi (Nghìn vàng khụn chuụ̣c dṍu bụi vụi - Khóc Tụ̉ng Cóc); làm mướn khụng cụng (Cõ̀m bằng làm mướn, mướn khụng cụng - Làm lẽ); ngụ̀i lá vụng, chụ̉ng mụng lá trụ́c (Đụ́ ai biờ́t đó vụng hay trụ́c - Quan thị); đõ̀u trỏ xuụ́ng, cuụ́ng trỏ lờn (Còn kẻ nào hay cuụ́ng với đõ̀u - Quan thị); lăn lóc như cóc bụi vụi (Đờm ngày lăn lóc đám cỏ hụi - Con ụ́c nhụ̀i). Cách xử lí này thường tạo nờn tính õ̉n ý kín đáo cho cõu thơ và đụi lúc khiờ́n cho cõu thơ như có hơi hướng của những cõu đụ́, ví dụ như trường hợp của "Đụ́ ai biờ́t đó vụng hay trụ́c" (Quan thị) hay như "Còn kẻ nào hay cuụ́ng với đõ̀u" (Quan thị). Những cõu thơ được sáng tác theo kiờ̉u này thường tạo cho người đọc có những sự liờn tưởng rụ̣ng hơn, thích thú hơn và đõ̀y ṍn tượng hơn bởi vì dṍu ṍn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tụ̀n tại phảng phṍt trong cõu thơ chứ khụng hiợ̀n hữu rõ ràng như ở cách thứ nhṍt. Do đó, muụ́n phát hiợ̀n ra trong cõu thơ ṍy tác giả có sử dụng các mụtip của thành ngữ, tục ngữ đờ̉ diờ̃n đạt nụ̣i dung hay khụng thì người đọc phải có mụ̣t vụ́n thành ngữ, tục ngữ nhṍt định đờ̉ làm cơ sở quy chiờ́u so sánh thì mới nhọ̃n ra được.
Qua mụ̣t sụ́ ví dụ trờn, chúng ta thṍy rằng ngụn ngữ dõn gian nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riờng có mụ̣t vai trò, giá trị rṍt lớn khụng chỉ trong đời sụ́ng ngụn ngữ nói hằng ngày mà còn cả trong ngụn ngữ viờ́t, đặc biợ̀t là thơ. Những cõu thành ngữ, tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của Hụ̀ Xuõn Hương dường như trở thành mụ̣t thứ cụng cụ hờ́t sức đắc dụng trong viợ̀c tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà khụng cõ̀n phải nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Như chúng ta đã biờ́t, thành ngữ, tục ngữ vụ́n là những đơn vị ngụn ngữ hờ́t sức đặc biợ̀t. Nó là mụ̣t loại tụ̉ hợp từ cụ́ định quen dùng nờn rṍt dờ̃ nhớ dờ̃ thuụ̣c, và đặc biợ̀t hơn là nghĩa của chúng thường có tính văn hoá, giáo dục cụ̣ng đụ̀ng, cũng như tính khái quát rṍt cao. Cho nờn, khi xuṍt hiợ̀n trong thơ chúng thường đem lại tính gõ̀n gũi, bình dị và mụ̣c mạc cho cõu thơ. Đụ̀ng thời, cũng tạo nờn những chiờ̀u sõu vờ̀ nghĩa thụng qua sự liờn tưởng, suy luọ̃n của người đọc. Nói như vọ̃y khụng có nghĩa là chúng ta phủ nhọ̃n giá trị của nờ̀n ngụn ngữ văn chương, hay ngụn ngữ phụ̉ thụng mà hiợ̀n nay chúng tađang phải học, phải tiờ́p xúc hằng ngày. Điờ̀u quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta thṍy được những vẻ đẹp vụ́n có của ngụn ngữ dõn gian. Và đặc biợ̀t là thṍy được cái biợ̀t tài của Bà chúa thơ Nụm trong viợ̀c vọ̃n dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thờ́ nào. Nói tóm lại, bṍt kờ̉ là ngụn ngữ dõn gian hay ngụn ngữ văn chương cũng đờ̀u cõ̀n phải được tiờ́p thu có chọn lọc và phát huy đúng sở trường thì mới có thờ̉ làm giàu thờm cho kho tàng ngụn ngữ dõn tụ̣c. Điờ̀u đó có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nờn được giá trị thực sự khi và chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí của nó mà thụi./.
(Nguồn: Tạp chớ Ngụn ngữ & Đời sống, số 4 – 2001)

Tài liệu đính kèm:

  • docTuyen tap van 11 phan 1.doc