Giáo án Ngữ văn 11 - Bài: Tràng giang (Huy Cận)

Giáo án Ngữ văn 11 - Bài: Tràng giang (Huy Cận)

TRÀNG GIANG

 - Huy Cận -

“Một chiếc linh hồn nhỏ

Mang mang thiên cổ sầu”

 Khi tự khắc họa chân dung tâm hồn mình, trong tập thơ “Lửa thiêng” nhà thơ Huy Cận đã từng nói như thế. Nỗi buồn ấy đã bao trùm cả tập thơ và hội tụ ở bài thơ Tràng Giang – một trong những bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám. Chúng ta cùng tìm hiểu bài học ngày hôm nay, để thấy được nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, nỗi buồn sầu cảm của nhà thơ Huy cận được thể hiện như thế nào?

I - TÌM HIỂU CHUNG:

 1.Tác giả: Huy Cận (1919 - 2005)

- Quê quán: ở làng Ân Phú, Hà Tĩnh.

- Lúc nhỏ: ông học ở quê, sau vào Huế học trung học, rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông.

- Từ năm 1942: thi sĩ giác ngộ cách mạng, dốc hết tài sức phục vụ cách mạng, từng giữ nhiều cương vị quan trọng trong bộ máy chính trị Nhà nước.

- Huy Cận: được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.

- Trước CMT8: thơ ông mang nỗi buồn nhân thế; sau CMT8, thế giới nghệ thuật Huy Cận vừa giàu cảm xúc tươi mới của cuộc đời vừa mang đậm nội dung triết lý về sự sống bất diệt, về tình yêu đất nước, về sức mạnh nhân dân và vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam.

- Sự nghiệp sáng tác: Lửa thiêng (1941), Vũ trụ ca(1942),Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa (1960),

Bài thơ cuộc đời (1963). Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972), Chiến trường gần chiến trường xa (1973), Những người mẹ những người vợNgày hằng sống ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), .

 2. Tác phẩm: "Tràng Giang"

- Xuất xứ: Bài thơ được rút ra từ tập Lửa thiêng.

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào một buổi chiều mùa thu năm 1939. Cảm xúc của bài thơ được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mang sông nước.

- Đại ý bài thơ: Bài thơ là nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu quê hương đất nước thầm kín mà da diết.

 

docx 6 trang Người đăng hoan89 Lượt xem 1477Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 11 - Bài: Tràng giang (Huy Cận)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRÀNG GIANG
	- Huy Cận -
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
	Khi tự khắc họa chân dung tâm hồn mình, trong tập thơ “Lửa thiêng” nhà thơ Huy Cận đã từng nói như thế. Nỗi buồn ấy đã bao trùm cả tập thơ và hội tụ ở bài thơ Tràng Giang – một trong những bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám. Chúng ta cùng tìm hiểu bài học ngày hôm nay, để thấy được nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, nỗi buồn sầu cảm của nhà thơ Huy cận được thể hiện như thế nào?
I - TÌM HIỂU CHUNG:
	1.Tác giả: Huy Cận (1919 - 2005)
Quê quán: ở làng Ân Phú, Hà Tĩnh.
Lúc nhỏ: ông học ở quê, sau vào Huế học trung học, rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông.
Từ năm 1942: thi sĩ giác ngộ cách mạng, dốc hết tài sức phục vụ cách mạng, từng giữ nhiều cương vị quan trọng trong bộ máy chính trị Nhà nước.
Huy Cận: được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
Trước CMT8: thơ ông mang nỗi buồn nhân thế; sau CMT8, thế giới nghệ thuật Huy Cận vừa giàu cảm xúc tươi mới của cuộc đời vừa mang đậm nội dung triết lý về sự sống bất diệt, về tình yêu đất nước, về sức mạnh nhân dân và vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam.
Sự nghiệp sáng tác: Lửa thiêng (1941), Vũ trụ ca(1942),Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa (1960),
Bài thơ cuộc đời (1963). Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972), Chiến trường gần chiến trường xa (1973), Những người mẹ những người vợNgày hằng sống ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), .
	2. Tác phẩm: "Tràng Giang"
Xuất xứ: Bài thơ được rút ra từ tập Lửa thiêng.
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào một buổi chiều mùa thu năm 1939. Cảm xúc của bài thơ được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mang sông nước.
Đại ý bài thơ: Bài thơ là nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu quê hương đất nước thầm kín mà da diết.
	3. Nhan đề và câu thơ đề từ.
	a. Nhan đề:
- Từ Hán Việt “Tràng giang” (sông dài) à gợi không khí cổ kính.
- Hiệp vần “ang”: tạo dư âm vang xa, trầm lắng, mênh mang.
à Gợi không khí cổ kính, khái quát à nỗi buồn mênh mang, rợn ngợp.
	b. Lời đề từ:
- Cảnh: trời rộng, sông dài " không gian rộng lớn
- Tình: bâng khuâng, nhớ " nỗi buồn, nỗi sầu
=> Nhan đề và đề từ đã định hướng cho cảm xúc chủ đạo của bài thơ, đo là nỗi buồn trước không gian rộng lớn.
II - ĐỌC & TÌM HIỂU VĂN BẢN:
	1. Cảnh vật trên sông và tâm tư của nhà thơ.(khổ 1)
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song
- Hình ảnh: thuyền, nước, sóng,là những hình ảnh quen thuộc khi nói về dòng sông.
+ Sóng “gợn”: sóng nhẹ, lăn tăn
+ Láy “Điệp điệp”: hình ảnh con sóng nói tiếp nhau, đều đều lan tỏa, da diết triền miên.
+ Thuyền xuôi mái > < nước song song: Con thuyền buông trôi, vô định, hờ hững, dòng nước cũng hờ hững với thuyền.
+ Đối: thuyền về > < nước lại: thuyền và nước không gắn bó, sự đối lập tạo sự chia ly, xa cách.
=> Không gian rộng lớn, mênh mông, sự vật chia lìa, xa cách.
Trong “Đăng Cao” của  Đỗ Phủ viết: 
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ Bất tận Trường Giang cổn cổn lai”
So với “Đăng cao” của Đỗ Phủ và “Tràng giang” của Huy Cận thì cảnh tượng trong thơ Đỗ Phủ hùng vĩ, tráng lệ nhưng trong thế giới của Huy Cận thì những con sóng không phải cuồn cuộn trôi mà là sóng gợn làm ta hình dung ra những con sóng nhẹ lăn tăn trên tràng giang, lan nhẹ  và mất hút giữa dòng chảy bao la. “Buồn điệp điệp” miêu tả cái buồn thiên nhiên nhưng kỳ thực là đang diễn tả nỗi buồn chất ngất trong lòng nhà thơ. Phải chăng nỗi buồn thi nhân đang gợn lên từng đợt nỗi buồn như những lớp sóng, như Huy Cận viết: “Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng, tôi cũng thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng”. Dòng sông ấy, nhìn đâu cũng toàn một màu buồn bã: cảnh vật thì chia ly tan tác, thuyền và nước luôn gắn bó không bao giờ xa cách nhau nhưng trong mắt Huy Cận thì thuyền và nước không ăn nhập với nhau, cảnh vật chia lìa và từ đó mà nỗi sầu nhà thơ tỏa ra vũ trụ “sầu trăm ngả”. “Con thuyền cũng không buồn lái, để mặc xuôi theo dòng nước lặng lờ. Ngay cả dòng nước trong bản thân con sông cũng không thiết đến nhau, cứ âm thầm mà chảy “song song”, vờ không quen biết nhau trong đời”.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
- “Củi/ một cành khô/ lạc mấy dòng” (ngắt nhịp 1/3/3)
+ “Một” gợi sự lạc lõng, khô héo.
+ Đảo ngữ: Củi một cành khô " nhấn mạnh sự bé nhỏ.
+ Một cành > < mấy dòng: Đối lập giữa không gian bao la, rộng lớn của sông nước với sự nhỏ bé, trơ trọi, mong manh của cành củi khô.
" Hình ảnh mong manh, nhỏ bé gợi sự liên tưởng đến kiếp người mong manh, vô định, trôi dạt giữa dòng đời.
=> Không gian sông nước mênh mông, rộng lớn, cảnh vật chia lìa.
2. Sự hoang vắng, quạnh quẽ của cảnh vật và nỗi sầu của thi nhân(Khổ 2).
- Câu 1:	"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu"
+ “Lơ thơ cồn nhỏ”: cảnh vật hoang sơ, vắng lặng
+ “Gió đìu hiu”: gió nhẹ, man man buồn
" Nghệ thuật láy và đảo ngữ: Khắc họa thiên nhiên hoang vắng, thưa thớt.
Nhắc đến từ “đìu hiu” chúng ta cũng nên liên tưởng một chút tới hai câu thơ của “Chinh phụ ngâm” – “Non kì quạnh quẽ trăng treo – Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Khắc họa cái không gian vắng lặng của buổi chợ chiều, tác giả đã đưa người đọc đến cái nỗi buồn xa xăm của mình. Sự xuất hiện của âm thanh “đâu tiếng làng xa”, vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khao khát của nhà thơ. Rồi từ đó, mà gợi lên cái không gian “nắng xuống trời lên sâu chót vót”. Tại sao tác giả lại không dùng “Cao chót vót” mà lại dùng “sâu chót vót”? Bởi lẽ, khi viết “sâu chót vót”, tác giả không chỉ muốn diễn tả độ cao của bầu trời mà còn muốn biểu hiện cảm giác chơi vơi, rợn ngợp của con người khi đối diện với cái hút sâu thăm thẳm của vũ trụ. Và cái hình ảnh của “sông dài trời rộng bến cô liêu” đã biến con người trở nên bé nhỏ trước không gian hoang sơ đó).
- Câu 2:	"Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."
+ Âm thanh: “đâu tiếng làng xa”, không trực tiếp, không phương hướng, không xác định.
+ Chợ chiều: chợ đã vãn người, ít người.
" Không gian tĩnh lặng, vắng bóng hoạt động của con người.
- Câu 3:	"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;"
+ Nắng xuống > < trời lên: gợi cả chiều cao, chiều sâu, không gian ngược hướng đẩy xa nhau.
+ Sâu chót vót: thường dùng chỉ độ cao, cách diễn đạt mới mẻ mang giá trị tạo hình.
- Câu 4:	"Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
+ Sông dài > < trời rộng: Khôn gian mở ra chiều dài và chiều rộng.
+ Bến cô liêu: Con người trở nên bé nhỏ trước không gian hoang sơ, vắng lặng.
=> Không gian rộng lớn, vắng vẻ, tĩnh lặng, cảnh vật hoang sơ, hiu quạnh.
4.Nỗi cô đơn, lạc lõng đến tột cùng của thi nhân trước cuộc đời:
- Cảnh vật giờ đây có thêm bờ, thêm bãi, có thêm ít màu xanh sắc vàng tô điểm cho bức tranh “Tràng giang”, và thay thế hình ảnh “củi một cành khô” là hình ảnh những đám “bèo” “hàng nối hàng” nối nhau đi mãi, gơi lên sự lênh đênh, phiêu bạt.
- Nó giống với hình ảnh “củi một cành khô” nhưng sắc thái biếu cảm thì khác nhau:
 + “ Củi một cành khô”: nỗi buồn về sự tan thương, biến đổi.
 + “Bèo”: nỗi buồn về sự hợp tan của cuộc đời, nó ẩn chứa một sự gắn bó hờ hững, mong manh, hợp đó rồi tan đó.
Và sắc thái biểu cảm cũng khác nhau:
 + “Củi một cành khô”:nỗi buồn chỉ dừng lại ở cái tôi cá nhân.
 + “Bèo ... hàng”: nỗi buồn lan tỏa thấm sâu vào tâm hồn của cả một thế hệ. Đó là tâm trạng chung của lớp thế hệ trẻ thanh niên những năm 30 – mất nước, bế tắc, mang tâm trạng hoang mang,choáng ngợp khi thấy mình đang phiên bạc giữa cuộc đời như những cánh bèo đang trôi vô định trên sông. Nhưng không phải vì thế mà họ quên hết chất thơ, cái đẹp của đời. Trái lại, họ vẫn thiết tha yêu thương cuộc sống, yêu thiên nhiên, đất nước, yêu con người.
- Huy Cận cũng thế, đang khát khao kiếm sự gắn bó, niềm thân mật giữa cuộc đời thì chỉ thấy:
“ Mênh mông không một chuyến đò ngang
 	 Không cầu gợi chút niềm thân mật
 	 Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
 + “Đò”, “cầu”: phương tiện để gắn kết đôi bờ
 + Cấu trúc phủ định “ không... không...” dồn chứa niềm tuyệt vọng, phủ định hoàn toàn sự gắn kết của con người; tạo sự xa cách, chia lìa. - Đến đây tâm trạng cô đơn lên đến đỉnh điểm, ước mong chỉ tìm thấy một “chút niềm thân mật” ở một “chuyến đò ngang”, một sự nối kết nào đó qua chiếc “cầu” nhỏ bé, nhưng tất cả đều không có được: 
“Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm”.
Giờ đây chỉ còn có “bờ xanh” với “bãi vàng” cứ lặng lẽ, im lìm, lặn ngụp trong không gian.
=> Lột tả hết nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng đến đỉnh điểm tột cùng dấu hiệu của sự sống, sự giao hòa giữa người với người.
3.Nét đẹp kỳ vĩ của thiên nhiên và nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ:(khổ 3)
- Huy Cận đã khép lại bài thơ vào cái khoảnh khắc buồn nhất của một ngày – một cảnh hoàng hôn rất “Đường thi”:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
 + “Thiên nhiên tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kỳ vĩ, lạ lùng”. Đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này.
 + “Tràng giang” rạng ngời vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây từ khắp nơi trôi về phía chân trời, rồi “đùn” lên thành những núi mây. Và trong ánh nắng của hoàng hôn, những ngọn núi mây ấy sáng lên màu bạc – “núi bạc”. Huy Cận đã học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:
“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.
 + Trong suốt hành trình “Tràng giang”, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật thay đổi nhưng cùng chung một dáng vẻ: trôi nổi, lạc loài, vô định (củi, bèo). Và ở đây, hình ảnh mang nỗi buồn của thi nhân thấp thoáng ẩn hiện trong hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” và đang chở nặng “bóng chiều sa”.
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi chiều hoàng hôn là hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng trong thơ cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình thiết tha vào đó.
“Chim hôm thoi thót về rừng”
 (Nguyễn Du)
Rồi: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”
Và: “Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi”.
 (Bà Huyện Thanh Quan)
Đó là sự giao cảm, sự đồng điệu giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận.
 + Yếu tố thời gian được tác giả thể hiện giàu sức gợi cảm qua hình ảnh “bóng chiều sa”. Cái độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ _ “Trong cách chim nghiêng, tác giả thấy được “bóng chiều sa”. Trong lúc Nguyễn Du thấy “bóng chiều” qua nhành “tơ liễu thướt tha”, Hàn Mặc Tử thấy “bóng xuân sang” trên những giàn thiên lý, thì ở đây Huy Cận tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy “bóng chiều” trên một cánh chim nghiêng.
“Bóng chiều” như một vật khối đè nặng, mang sức nặng vô hình đè lên cánh chim nhỏ bé, khiến nó phải nghiêng cánh, phải chao đảo.
- Vào đúng giây phút ấy, nhà thơ chợt dâng trào một nỗi nhớ quê hương da diết:
“Lòng quê..... nhớ nhà”
Trong suốt hành trình “Tràng giang”, ta luôn bắt gặp những từ láy, tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê thiết. Và nốt nhạc kết thúc là “dợn dợn” diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn.
Âm hưởng thơ Đường triền miên trong câu thơ cuối, mượn niềm luyến nhớ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng Hạc Lâu” 
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai).
 	 (Tản Đà dịch)
- Ở đây, Huy Cận mượn ý thơ của Thôi Hiệu nhưng cũng thêm cho Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng trên sông mà nhớ quê, nay Huy Cận nhìn thấy không gian hoang vắng, thấy sóng gợn “Tràng giang” mà dậy lên trong lòng nỗi buồn nhớ quê hương. Cái khác biệt ở đây là nỗi buồn của Huy Cận không chỉ thông qua tác động của ngoại cảnh, mà nỗi buồn được khởi phát bởi chính lòng mình, từ Những con sóng lòng đang dâng trào mãnh liệt. Bởi thế, sắc thái buồn càng được tô đậm hơn.
=> Trước không gian bao la của cuộc đời, con người dễ cảm thấy bị cô độc, nhỏ bé nên thường đi tìm một chỗ dựa tinh thần. Huy Cận đang chìm đắm trong nỗi cô đơn, nên ông cũng tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần, chỗ dựa ấy chính là quê hương. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước rất sâu sắc trong tâm hồn của thi.
- Bao trùm cả bài thơ là một nỗi buồn – “nỗi buồn thế hệ” – thế hệ thanh niên tri thức trong những năm tháng mất nước, bế tắc, ngột ngạt. Nỗi buồn trong sáng xuất phát từ lòng yêu nước thầm kín.
III. TỔNG KẾT:
1.Giá trị nội dung:
- “Tràng giang” là một bài thơ đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào Thơ mới nói chung. Bài thơ thể hiện sâu sắc, tinh tế tâm trạng của cái tôi bơ vơ trước không gian bao la, rộng lớn và tấm lòng thiết tha của thi nhân đối với quê hương đất nước.
- Người ta thường nói: “Lòng yêu nước là điểm níu giữ, là nơi neo đậu cho mọi cuộc phiêu lưu trong cảm xúc của các nhà thơ mới”. Quả đúng như vậy, khi cảm nhận về “Tràng giang”, Xuân Diệu đã từng khẳng định: “Tràng giang là một bài thơ ca hát với non sông đất nước, do đó nó đã dọn đường cho tình yêu giang sơn Tổ quốc”.
2. Giá trị nghệ thuật: 
Bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển vừa mang nét đẹp hiện đại:
- Cổ điển:
 + Thể thơ thất ngôn trang nghiêm với cách ngắt nhịp 4/3, tạo sự cân đối hài hòa.
 + Sự nhạy cảm của tác giả với cảnh tượng thiên nhiên bát ngát, không gian vô tận.
 + Cách thức miêu tả thiên nhiên bằng những nét chấm phá.
 + Sử dụng thi liệu cổ (mây, sóng, cánh chim, ...).
 + Âm điệu thơ trầm buồn.
 + Sử dụng nhiều từ láy nguyên (điệp điệp, song song, dợn dợn), mang nét cổ kính của thơ đường; kết hợp với các từ ngữ cổ điển (đìu hiu, sầu, ...).
 + Nỗi buồn của tác giả ẩn sau cảnh vật.
 + Vận dụng sáng tạo lối diễn đạt và các ý trong các tứ thơ cổ điển, gợi không khí trang nghiêm, trầm mặc của thơ Đường.
- Hiện đại:
 + Vận dụng sáng tạo thể thơ 7 chữ.
 + Sử dụng các từ ngữ hiện đại: củi, sâu chót vót; dấu hai chấm giữa dòng.
 + Bài thơ mang tâm trạng hiện đại – yêu quê hương đất nước.
=> Bài thơ mang phong cách tiêu biểu rất “Huy Cận”, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã, sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng nỗi lòng yêu quê hương đất nước.
 3. Cảm hứng sáng tác và đề tài cho thấy vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng Giang
Khi nói đến vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thì cảm hứng sáng tác chính là nhân tố đầu tiên cần nhắc đến. Bài thơ là nỗi u sầu vạn cổ của những con người bé nhỏ, vô định, không tìm được hướng đi trong xã hội cũ trước Cách mạng tháng 8. Sự hữu hạn của con người với cái vô hạn của thời gian không gian trong cảm hứng cũng đã làm bật lên tư tưởng của toàn bài thơ.
Một cái tôi thơ Mới với nỗi buồn chung của cả một thế hệ bế tắc không tìm được hướng đi. Tràng giang là tiếng nói thầm kín của tình yêu nước.
Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ cũng thể hiện vẻ đẹp cổ điển và hiện đại. Đó chính là vào một buổi chiều thu của năm 1939, bức tranh thiên nhiên được khắc họa trong bài thơ đã trở thành linh hồn đìu hiu cô đơn của một hồn thơ rất sầu.
4. Chất liệu thi ca của bài thơ thể hiện vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng Giang
Trong tác phẩm, chúng ta thấy rất nhiều những hình ảnh thân thuộc trong thơ cổ như cánh chim trong bóng chiều, bờ bãi đìu hiu cùng nhiều tứ thơ cổ.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại qua chất liệu thi ca còn được thể hiện ở những hình ảnh và âm thanh của đời thường, rất chân thực sinh đồng và không hề mang chút ước lệ như tiếng chợ chiều, làng xa, bèo dạt, củi khô
5. Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng Giang thể hiện qua thể thơ và bút pháp
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang còn được thể hiện qua thể loại thơ và bút pháp. Bài thơ mang đậm phong vị cổ điển, hơi hướng thơ Đường thi, thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần cùng với cấu trúc thơ đăng đối.
Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi nhiều hơn tả với những từ như cô liêu, tràng giang – một loạt các từ Hán việt cổ kính.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã được làm nổi bật lên qua đề tài, cảm hứng sáng tác, chất liệu thi ca cũng như thể loại và bút pháp mà nhà thơ đã sử dụng. Tràng giang không chỉ một bức tranh thiên nhiên thấm đượm tâm trạng nhân vật trữ tình mà nó còn là tiếng nói yêu nước thầm kín của nhà thơ và cả một thế hệ thi nhân lúc bấy giờ. Tràng giang chính là bài thơ của tâm hồn, thể hiện sự cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ và cuộc đời. Nét đẹp này của bài thơ sẽ luôn đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu và độc đáo của Huy Cận.

Tài liệu đính kèm:

  • docxgiao_an_ngu_van_11_bai_trang_giang_huy_can.docx