Giáo án môn Ngữ văn lớp 11 - Ôn tập Tràng Giang

Giáo án môn Ngữ văn lớp 11 - Ôn tập Tràng Giang

A-Mục tiêu của bài dạy:

 Giúp học sinh:

- Củng cố, nâng cao những kiên thức đã học về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

- Luyện tập phân tích đề, lập dàn ý cho một đề văn cụ thể

B-Chuẩn bị phương tiện:

 - Sgk,Sgv Ngữ văn 11. Tài liệu tham khảo về Huy Cận

 - Thiết kế bài giảng

C- Phương pháp sử dụng

- GV ra đề ( phát vấn, gợi mở, nêu vấn đề)

- Hs thảo luận, xây dựng dàn ý

D-Nội dung và tiến trình lên lớp

 

doc 4 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 3385Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn lớp 11 - Ôn tập Tràng Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngày soạn: 01/2010
Ngày dạy: 
Lớp dạy: 11K- 11E- 11F
Buổi dạy: Buổi 2 
 Ôn tập
Tràng giang
 Huy Cận
A-Mục tiêu của bài dạy:
 Giúp học sinh:
- Củng cố, nâng cao những kiên thức đã học về bài thơ Tràng giang của Huy Cận
- Luyện tập phân tích đề, lập dàn ý cho một đề văn cụ thể 
B-Chuẩn bị phương tiện:
 - Sgk,Sgv Ngữ văn 11. Tài liệu tham khảo về Huy Cận 
 - Thiết kế bài giảng
C- Phương pháp sử dụng
- GV ra đề ( phát vấn, gợi mở, nêu vấn đề)
- Hs thảo luận, xây dựng dàn ý 
D-Nội dung và tiến trình lên lớp 
I/ Kiến thức cơ bản 
Tác giả
 2. Tác phẩm
II/ Luyện tập
 1.Nội dung phân tích
a- Khổ 1
b- Khổ 2
c- Khổ 3
d- Khổ 4
e- Câu thơ đề từ
2. Nghệ thuật bài thơ
a- Về hình thức tổ chức câu thơ
b- Về hình ảnh thơ
 3. Kết luận chung
Huy Cận (1919 - 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, gốc làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước, từ đó tích cực tham gia các phong trào văn nghệ phục vụ cách mạng và giữ các chức vụ quan trọng trong Chính phủ và trong Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Năm 2001, Huy Cận được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới.
Thơ Huy Cận trước Cách mạng nổi tiếng với tập Lửa thiêng, tập thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng, đó là một nỗi buồn mênh mang, da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, tạo cảm giác cô đơn rợn ngợp. Trước vũ trụ bao la, con người thật nhỏ bé và cô đơn. Đó là tâm trạng chung của các nhà thơ mới. Tâm trạng của thế hệ thanh niên rơi vào tình trạng không tìm ra ý nghĩa cuộc đời, trong họ luôn chứa chất tâm sự thời cuộc. 
Sau Cách mạng, thơ Huy Cận vui hơn, hoà cùng niềm vui chung của toàn dân tộc. 
 Bài thơ Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng. Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp thơ ca cổ điển và tâm sự thời đại.
- Vẻ đẹp cổ điển : Bức tranh thiên nhiên trời rộng, sông dài, sơn thuỷ hữu tình nhưng vắng lặng đìu hiu. Cảnh vật gợi nỗi buồn, sự cô đơn, con người nhỏ bé trước thiên nhiên bao la. Bài thơ sử dụng nhiều yếu tố có tính chất tương phản. 
- Cảnh vật gợi nhiều tâm trạng. Tâm trạng nhân vật trữ tình là tâm trạng buồn, cô đơn, nhớ quê hương. Đứng giữa quê hương vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê hương là tâm trạng chung của tất cả các nhà thơ mới. 
- Cô đơn và nhỏ bé trước cuộc đời nên luôn khát khao được giao cảm với đời. Bài thơ còn gợi tả tâm sự ấy. 
 Bài thơ có bốn khổ, mỗi khổ như một bài thơ tứ tuyệt Đường thi, khổ nào cũng mênh mông sóng nước và dờn dợn một nỗi buồn sầu. Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn, cô đơn, trống vắng. Đó là nỗi buồn của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước Cách mạng.
Cả bốn câu thơ ở khổ 1 đều tả cảnh nhưng mỗi cảnh lại mang một sắc thái khác nhau. ở hai câu đầu, cảnh vật được gợi tả khá quen thuộc, bình dị, tự nó không có gì đáng buồn : sóng nước, thuyền trôi... "Sóng gợn" là do gió, nhưng khi thêm cụm từ buồn điệp điệp thì sóng ấy đâu còn là hình ảnh thiên nhiên mà là sóng ở trong lòng người. Con sóng có thật của Tràng giang vỗ vào nỗi hiu hắt, cô đơn trở thành nỗi buồn "điệp điệp". Một nỗi buồn âm thầm, da diết khôn nguôi cứ trải ra liên tiếp theo những lớp sóng nối đuôi nhau không dứt trên dòng tràng giang. Cụm từ nước song song cũng là một cấu tứ lạ đăng đối với buồn điệp điệp ở câu trên như để nhấn thêm nỗi buồn. Hình ảnh thơ gợi lên nỗi niềm của cả một thế hệ với biết bao sầu thương, ảo não. Sang đến hai câu sau tình buồn bắt gặp cảnh buồn với cái "sầu trăm ngả" của những chuyển động ngược chiều, ngược hướng "thuyền về, nước lại" và hình ảnh nổi trôi phiêu dạt của một cành củi khô lạc giữa mấy dòng nước. Hình ảnh cành củi ấy gợi lên những ám ảnh về thân phận nhỏ nhoi, phiêu dạt, lạc loài. Nhịp câu thơ trúc trắc (1 - 3 - 1 - 2) phá cách thơ thất ngôn cổ điển cùng phép đảo ngữ, tương phản cũng góp phần nhấn mạnh tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Sang đến khổ 2, tầm nhìn rộng hơn, một không gian bao la, cái nhỏ bé vẫn tương phản với cái mênh mông vô cùng. Bức tranh sông nước có thêm vài nét chấm phá với những thi liệu quen thuộc của bài thơ cổ : cồn cát, gió đìu hiu, thuyền - bến cô liêu... Hai từ láy lơ thơ và đìu hiu được dùng rất nhiều rất đắt vừa có giá trị tạo hình vừa giàu khả năng biểu đạt tâm trạng, lại gợi màu sắc cổ kính, gợi hơi hướng cổ thi. Âm thanh tiếng chợ chiều đã vãn nơi làng xa vẳng lại càng gợi buồn. Nó mơ hồ xao xác quá và gợi không khí tàn tạ, vắng vẻ. Có lẽ đây là âm thanh vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khát khao của nhà thơ. Câu thơ thứ 3, thứ 4 mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của nắng xuống, trời lên, sông dài, bến vắng cô liêu càng làm cho cảnh thêm buồn, tâm trạng thêm cô đơn.
Khổ thơ thứ ba, vẻ đìu hiu hoang vắng của cảnh vật được tô đậm hơn đến mức dường như không còn dấu vết của sự sống khiến nỗi buồn được đẩy lên đến tột cùng với điệp từ không, giọng thơ như hụt hẫng. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người, "không một chuyến đò", không có lấy một cây cầu nối liền đôi bờ để có thể tạo nên sự gắn kết con người với nhau. 
Khổ thơ cuối miêu tả cảnh hoàng hôn và thể hiện tâm trạng buồn nhớ quê hương của con người - một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển hình của thi ca cổ điển. Cảnh bầu trời cao rộng êm ả lúc chiều tà được chấm phá theo bút pháp Đường thi với hai hình ảnh "đám mây" và "cánh chim" - những thi liệu quen thuộc trong thơ ca trung đại phương Đông. Hình ảnh tương phản giữa cánh chim (cánh chim đã nhỏ lại nghiêng nên càng nhỏ nhoi hơn) và bầu trời gợi cảm giác cô đơn, nhỏ bé và rợn ngợp. Không gian ấy là cái nền để nhân vật trữ tình thể hiện nỗi nhớ quê hương. Nỗi nhớ mênh mang vời vợi, "dợn dợn" trải dài như những con sóng nối đuôi nhau chạy đến vô tận, vô cùng. 
Về câu thơ đề từ (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài) : Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương đan xen nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài).
Về hình thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng lời thơ trong các cặp câu :
	- Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
	Con thuyền xuôi mái nước song song.
- Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cả hai cặp câu thơ trên, về hình thức tổ chức câu thơ cũng như sử dụng lời thơ, đều có sự vận dụng và phát huy một cách sáng tạo những yếu tố cổ điển Đường thi để thể hiện tâm tư của cái tôi thơ mới.
Cách tổ chức câu thơ tuân theo phép đối ngẫu phổ biến của thơ Đường. Chúng đều là những cặp câu đối nhau. Tuy nhiên, dạng thức mẫu mực của đối, theo quan niệm cổ điển, là phải đối nhau triệt để (đối câu, ý, chữ, âm...). ở đây, Huy Cận chỉ mượn nguyên tắc tương xứng của đối, chứ không đẩy lên thành đối chọi. Vì thế, câu thơ tạo ra vẻ cân xứng trang trọng, mở ra được các chiều kích vô biên của không gian, mà không gây cảm giác gò bó, nệ cổ. Nghĩa là, một nét thi pháp cổ điển Đường thi đã được cách tân để phù hợp với tâm lí hiện đại.
Cách sử dụng lời thơ cũng vậy. Có những ngôn từ được dùng theo lối thơ Đường, cụ thể là học theo lối dùng từ láy, theo lối song song của Đỗ Phủ trong bài Đăng cao ở cặp câu :
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Có lối dùng những cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng, cả về âm thanh, cả về ý nghĩa : sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng... Có lối tạo từ theo phong cách cổ điển : bến cô liêu. Có lối "lạ hoá" ngôn từ : sâu chót vót. Chót vót vốn là một từ được dùng để diễn tả chiều cao, ở đây được dùng để biểu đạt chiều sâu. Trước Huy Cận chưa thấy dùng như thế. Điều này có vẻ vô lí. Nhưng cái lí của việc sáng tạo này là ở chỗ : tác giả không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh trời mà xuyên sâu vào đáy đáy vũ trụ. Cái tôi ấy càng thấy bơ vơ hơn trước cái vô biên đến rợn ngợp như thế. Vì vậy, chiều cao đã chuyển hoá thành chiều sâu một cách thật tự nhiên.
 Những hình ảnh "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa" được dùng thật sáng tạo, vừa gợi hình vừa gợi cảm.
Trước hết, đó là những hình ảnh nghiêng về tả thực, bằng những chi tiết sống động. Chúng giúp cho thi sĩ tái hiện diện mạo chân thực của sông nước tràng giang cũng như cảnh không trung lúc hoàng hôn. Thủ pháp bao trùm đều là tương phản: hữu hạn – vô hạn, nhỏ nhoi – lớn lao, hữu hình – vô hình. Nhờ đó, người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên thật sinh động và sắc nét.
Cả hai hình ảnh nghệ thuật đều gợi ra thân phận bơ vơ, chìm nổi, vô định của những cá thể nhỏ nhoi giữa tạo vật thiên nhiên mênh mông hiu quạnh. Đối diện với những cá thể ấy, con người không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình. Nó cũng là một cá thể bơ vơ, trôi dạt trong cái vô cùng, vô tận của không gian, cái vô thủy vô chung của thời gian.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn non nước thể hiện lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của một lớp thanh niên trong chế độ cũ. Cảm hứng xuyên suốt Tràng giang là nỗi buồn triền miên vô tận, là nỗi sầu nhân thế. Xuân Diệu khẳng định : "Tràng Giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước ... dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc sau này".
 Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thi ca dân tộc. Trong sáng tác của ông, người ta dễ dàng cảm nhận được dấu ấn Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng chú ý là chúng đã được Việt hoá một cách nhuần nhị.
E- Củng Cố- rút kinh nghiệm bài dạy:

Tài liệu đính kèm:

  • doctrang giang.doc