Giáo án môn Ngữ văn 11 - Thành ngữ và tục ngữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương

Giáo án môn Ngữ văn 11 - Thành ngữ và tục ngữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương

Người ta thường bảo “Nôm na là cha mách qué”, thế nhưng với thơ Hồ Xuân Hương thì đó lại là một ngoại lệ, bởi vì người đọc nhớ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ấy. Nếu không có cái chất “nôm na”, “mách qué”, “xỏ xiên” đầy tinh quái này thì có lẽ đã không có một Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn vinh Bà thành Bà chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của Bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta ngây ngất, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mân mó, tấp tênh, lún phún, le te, chín mõm mòm,. Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ấy, người ta còn bắt gặp ở Bà một biệt tài nữa trong việc vận dụng tiếng nói dân gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc đáo hơn.

 

doc 140 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 1705Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn 11 - Thành ngữ và tục ngữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư liệu: Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nụm Hồ Xuõn Hương
Thành ngữ và tục ngữ trong thơ nụm Hồ Xuõn Hương
Đặng Thanh Hũa
Người ta thường bảo “Nụm na là cha mách qué”, thờ́ nhưng với thơ Hụ̀ Xuõn Hương thì đó lại là mụ̣t ngoại lợ̀, bởi vì người đọc nhớ Xuõn Hương, yờu Xuõn Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ṍy. Nờ́u khụng có cái chṍt “nụm na”, “mách qué”, “xỏ xiờn” đõ̀y tinh quái này thì có lẽ đã khụng có mụ̣t Xuõn Hương đờ̉ cho người đời chiờm ngưỡng và tụn vinh Bà thành Bà chúa thơ Nụm trong làng thơ Viợ̀t Nam. Chính cái chṍt nụm na trong thơ của Bà đã tạo nờn mụ̣t chṍt men xúc tác mãnh liợ̀t trong lòng người đọc. Người ta ngõy ngṍt, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngụn ngữ “nhà quờ, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mõn mó, tṍp tờnh, lún phún, le te, chín mõm mòm,... Tṍt cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự trau chuụ́t, gọt giũa, khuụn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngụn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ṍy, người ta còn bắt gặp ở Bà mụ̣t biợ̀t tài nữa trong viợ̀c vọ̃n dụng tiờ́ng nói dõn gian trong thơ. Đó là viợ̀c đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho cõu thơ trở nờn giàu tính hình tượng, dờ̃ nhớ, và đụ̣c đáo hơn.
Qua sự khảo sát trong sụ́ 39 bài thơ trong tọ̃p Thơ Hụ̀ Xuõn Hương do tác giả Nguyờ̃n Lụ̣c tuyờ̉n chọn và giới thiợ̀u được Nhà xuṍt bản Văn học xuṍt bản năm 1987, chúng tụi đã phát hiợ̀n được 15 trường hợp có xuṍt hiợ̀n các yờ́u tụ́ của thành ngữ, tục ngữ trong những cõu thơ. Đõy quả là mụ̣t con sụ́ khụng nhỏ, nó cho thṍy thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nụm Hụ̀ Xuõn Hương có vị trí và vai trò đặc biợ̀t quan trọng như thờ́ nào. Quả là hiờ́m có mụ̣t nhà thơ nào lại quan tõm đặc biợ̀t đờ́n vai trò của ngụn ngữ dõn gian như Hụ̀ Xuõn Hương.
Viợ̀c đưa thành ngữ, tục ngữ vào tác phõ̉m đã được nhà thơ xử lí rṍt tinh tờ́, tài tình và nhuõ̀n nhuyờ̃n. Có những tác phõ̉m tuy rṍt ngắn nhưng chúng ta đã khụng khỏi ngạc nhiờn khi thṍy tác giả đã hai lõ̀n sử dụng đờ́n yờ́u tụ́ thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn như: Bài Mời trõ̀u có hai cõu thành ngữ xanh như lá và bạc như vụi được áp dụng trong cõu thơ "Đừng xanh như lá, bạc như vụi". Bài Khóc Tụ̉ng Cóc lại có hai cõu thành ngữ khác là nòng nọc đứt đuụi và gọt gáy bụi vụi được áp dụng trong hai cõu thơ “Nòng nọc đứt đuụi từ đõy nhé, Nghìn vàng khụn chuụ̣c dṍu bụi vụi”. Hoặc như ở bài Quan thị thì hai cõu thơ "Đụ́ ai biờ́t đó vụng hay trụ́c, Còn kẻ nào hay cuụ́ng với đõ̀u" lại chính là hai hình ảnh hờ́t sức ví von được rút ra từ hai cõu tục ngữ[/i] ngụ̀i lá vụng, chụ̉ng mụng lá trụ́c [/i]và đõ̀u trỏ xuụ́ng, cuụ́ng trỏ lờn. 
Thọ̃m chí có bài như bài Làm lẽ, chỉ với tám cõu thơ ngắn nhưng lại có tới ba cõu thành ngữ đã góp phõ̀n vào trong ṍy, đó là "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" lṍy từ ý của cõu thành ngữ năm thì mười hoạ; “Cụ́ đṍm ăn xụi, xụi lại hõ̉m" lṍy từ ý của cõu thành ngữ cụ́ đṍm ăn xụi; và cõu "Cõ̀m bằng làm mướn, mướn khụng cụng" lṍy từ ý của thành ngữ làm mướn khụng cụng. Ngoài ra, còn có những bài khác cũng được vọ̃n dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: "Tài tử văn nhõn ai đó tá?" (Tự tình I) lṍy ý của thành ngữ tài tử giai nhõn. "ṍy ai thăm ván cam lòng vọ̃y" (Tự tình III) lṍy ý thành ngữ thăm ván bán thuyờ̀n. "Bảy nụ̉i ba chìm với nước non" (Bánh trụi nước) ý của thành ngữ ba chìm bảy nụ̉i (bảy nụ̉i ba chìm). "Mỏi gụ́i chụ̀n chõn võ̃n muụ́n trèo" (Đèo Ba Dụ̣i) ý của thành ngữ mỏi gụ́i chụ̀n chõn. "Bán lợi mua danh nào những kẻ" (Chơi chợ chùa Thõ̀y) ý của thành ngữ bán lợi mua danh (mua danh bán lợi). Và "Đờm ngày lăn lóc đám cỏ hụi" (Con ụ́c nhụ̀i) từ ý của thành ngữ lăn lóc như cóc bụi vụi.
Qua mụ̣t sụ́ dõ̃n chứng trờn, chúng ta có thờ̉ thṍy rằng Hụ̀ Xuõn Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yờ́u thụng qua hai phương thức chính như sau: 
Phương thức thứ nhṍt là vọ̃n dụng trực tiờ́p thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lṍy nguyờn văn, nguyờn dạng những cõu thành ngữ, tục ngữ vụ́n có của dõn gian đờ̉ đưa vào thơ như trường hợp: xanh như lá, bạc như vụi (Đừng xanh như lá, bạc như vụi - Mời trõ̀u); nòng nọc đứt đuụi (Nòng nọc đứt đuụi từ đõy nhé - Khóc Tụ̉ng Cóc); năm thì mười hoạ, (Năm thì mười hoạ chăng hay chớ - Làm lẽ); cụ́ đṍm ăn xụi (Cụ́ đṍm ăn xụi, xụi lại hõ̉m - Làm lẽ); bảy nụ̉i ba chìm (Bảy nụ̉i ba chìm với nước non - Bánh trụi nước); mỏi gụ́i chụ̀n chõn (Mỏi gụ́i chụ̀n chõn võ̃n muụ́n trèo - Đèo Ba Dụ̣i); bán lợi mua danh (Bán lợi mua danh nào những kẻ - Chơi chợ chùa Thõ̀y). Cách xử lí này phải nói là tương đụ́i khó bởi vì nó đòi hỏi tác giả phải có mụ̣t khả năng cảm nhọ̃n hờ́t sức tinh tờ́ vờ̀ nghĩa của những cõu thành ngữ, tục ngữ mà họ định sử dụng đờ̉ xem nó có phù hợp với ý thơ mà mình định trình bày ở trong cõu và trong bài hay khụng. Đụ̀ng thời, tác giả cũng phải là người hờ́t sức giỏi vờ̀ khả năng xử lí ngụn từ đờ̉ có thờ̉ “ghép” những cõu thành ngữ, tục ngữ, vụ́n là mụ̣t “khụ́i từ ngữ đúc sẵn”, vào với những từ ngữ chủ quan riờng của mình đờ̉ tạo nờn mụ̣t cõu thơ hoàn chỉnh mà khụng bị cứng nhắc, gượng ép vờ̀ nghĩa cũng như vờ̀ võ̀n điợ̀u. 
Những khó khăn nói trờn đã được Hụ̀ Xuõn Hương xử lí thành cụng mụ̣t cách tuyợ̀t vời. Chúng ta thử lṍy mụ̣t ví dụ nhỏ trong sụ́ các ví dụ trờn thì sẽ thṍy rõ hơn biợ̀t tài của Bà trong vṍn đờ̀ này. Ví dụ trong bài Làm lẽ, đờ̉ miờu tả thõn phọ̃n hõ̉m hiu, thua thiợ̀t của người vợ lẽ trong cuụ̣c sụ́ng vợ chụ̀ng, tác giả đã sử dụng hai cõu thành ngữ năm thì mười hoạ và cụ́ đṍm ăn xụi trong hai cõu thơ "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" và "Cụ́ đṍm ăn xụi, xụi lại hõ̉m". Đụ́i với tiờ̀m thức văn hoá của người Viợ̀t thì hai cõu thành ngữ này vụ́n rṍt quen thuụ̣c vì nó thường được sử dụng đờ̉ nói tới sự trái khoáy, trớ trờu của mụ̣t điờ̀u gì đó. Vì vọ̃y trong trường hợp này phải nói rằng Xuõn Hương đã sử dụng nó rṍt hợp cảnh hợp tình.
Phương thức thứ hai là chỉ lṍy ý của thành ngữ, tục ngữ đờ̉ chuyờ̉n vào trong thơ chứ khụng áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ nhṍt. Chẳng hạn như: thăm ván bán thuyờ̀n (ṍy ai thăm ván cam lòng vọ̃y - Tự tình III); gọt gáy bụi vụi (Nghìn vàng khụn chuụ̣c dṍu bụi vụi - Khóc Tụ̉ng Cóc); làm mướn khụng cụng (Cõ̀m bằng làm mướn, mướn khụng cụng - Làm lẽ); ngụ̀i lá vụng, chụ̉ng mụng lá trụ́c (Đụ́ ai biờ́t đó vụng hay trụ́c - Quan thị); đõ̀u trỏ xuụ́ng, cuụ́ng trỏ lờn (Còn kẻ nào hay cuụ́ng với đõ̀u - Quan thị); lăn lóc như cóc bụi vụi (Đờm ngày lăn lóc đám cỏ hụi - Con ụ́c nhụ̀i). Cách xử lí này thường tạo nờn tính õ̉n ý kín đáo cho cõu thơ và đụi lúc khiờ́n cho cõu thơ như có hơi hướng của những cõu đụ́, ví dụ như trường hợp của "Đụ́ ai biờ́t đó vụng hay trụ́c" (Quan thị) hay như "Còn kẻ nào hay cuụ́ng với đõ̀u" (Quan thị). Những cõu thơ được sáng tác theo kiờ̉u này thường tạo cho người đọc có những sự liờn tưởng rụ̣ng hơn, thích thú hơn và đõ̀y ṍn tượng hơn bởi vì dṍu ṍn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tụ̀n tại phảng phṍt trong cõu thơ chứ khụng hiợ̀n hữu rõ ràng như ở cách thứ nhṍt. Do đó, muụ́n phát hiợ̀n ra trong cõu thơ ṍy tác giả có sử dụng các mụtip của thành ngữ, tục ngữ đờ̉ diờ̃n đạt nụ̣i dung hay khụng thì người đọc phải có mụ̣t vụ́n thành ngữ, tục ngữ nhṍt định đờ̉ làm cơ sở quy chiờ́u so sánh thì mới nhọ̃n ra được.
Qua mụ̣t sụ́ ví dụ trờn, chúng ta thṍy rằng ngụn ngữ dõn gian nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riờng có mụ̣t vai trò, giá trị rṍt lớn khụng chỉ trong đời sụ́ng ngụn ngữ nói hằng ngày mà còn cả trong ngụn ngữ viờ́t, đặc biợ̀t là thơ. Những cõu thành ngữ, tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của Hụ̀ Xuõn Hương dường như trở thành mụ̣t thứ cụng cụ hờ́t sức đắc dụng trong viợ̀c tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà khụng cõ̀n phải nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Như chúng ta đã biờ́t, thành ngữ, tục ngữ vụ́n là những đơn vị ngụn ngữ hờ́t sức đặc biợ̀t. Nó là mụ̣t loại tụ̉ hợp từ cụ́ định quen dùng nờn rṍt dờ̃ nhớ dờ̃ thuụ̣c, và đặc biợ̀t hơn là nghĩa của chúng thường có tính văn hoá, giáo dục cụ̣ng đụ̀ng, cũng như tính khái quát rṍt cao. Cho nờn, khi xuṍt hiợ̀n trong thơ chúng thường đem lại tính gõ̀n gũi, bình dị và mụ̣c mạc cho cõu thơ. Đụ̀ng thời, cũng tạo nờn những chiờ̀u sõu vờ̀ nghĩa thụng qua sự liờn tưởng, suy luọ̃n của người đọc. Nói như vọ̃y khụng có nghĩa là chúng ta phủ nhọ̃n giá trị của nờ̀n ngụn ngữ văn chương, hay ngụn ngữ phụ̉ thụng mà hiợ̀n nay chúng tađang phải học, phải tiờ́p xúc hằng ngày. Điờ̀u quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta thṍy được những vẻ đẹp vụ́n có của ngụn ngữ dõn gian. Và đặc biợ̀t là thṍy được cái biợ̀t tài của Bà chúa thơ Nụm trong viợ̀c vọ̃n dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thờ́ nào. Nói tóm lại, bṍt kờ̉ là ngụn ngữ dõn gian hay ngụn ngữ văn chương cũng đờ̀u cõ̀n phải được tiờ́p thu có chọn lọc và phát huy đúng sở trường thì mới có thờ̉ làm giàu thờm cho kho tàng ngụn ngữ dõn tụ̣c. Điờ̀u đó có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nờn được giá trị thực sự khi và chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí của nó mà thụi./.
(Nguồn: Tạp chớ Ngụn ngữ & Đời sống, số 4 – 2001)
 Tinh thần Phục hưng trong thơ Hồ Xuõn Hương
TINH THẦN PHỤC HƯNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
1/ Xung quanh những bài thơ nụm được truyền tụng của Hồ Xuõn Hương, hai luồng ý kiến "khen" và "chờ" tồn tại dai dẳng − cú lẽ đó từ rất lõu, và cú thể đoỏn rằng ngay từ khi những bài thơ ấy xuất hiện và bắt đầu sống trong trớ nhớ của cỏc thế hệ cụng chỳng − cú một điểm đụng độ nhau kịch liệt. Ấy là chỗ mà người ta gọi là cỏi "tục và dõm": Cú phải là cú cỏi "tục và dõm" trong những bài thơ ấy? ý nghĩa của nú ra sao? 
Luồng ý kiến "chờ" đương nhiờn khẳng định sự cú mặt của cỏi đú trong những bài thơ ấy, và đấy là căn cứ cho một sự đỏnh giỏ phủ định, nhõn danh lợi ớch của những điều được xem như là thuần phong mỹ tục, là sự giỏo húa đạo đức. 
Luồng ý kiến "khen", để cú thể tự đứng vững, đó phải viện đến nhiều thứ, nào giỏ trị sỏng tạo ngụn ngữ và hỡnh tượng, nào giỏ trị trong lĩnh vực văn học trào phỳng, v.v và dường như khỏ lõu về sau, thời thế mới xui khiến người ta nờu thờm phương diện "chống phong kiến", phương diện thể hiện cỏi đẹp và sức sống tự nhiờn của đời sống con người. Tuy thế những người chia sẻ luồng ý kiến này dường như khú tự thuyết phục trong ...  1930-1945. 
ễng vốn quờ quỏn Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cỏch mạng thỏng tỏm, thơ ụng mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiờn nhiờn, tạo vật với cỏc tỏc phẩm tiờu biểu như: "Lửa thiờng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cỏch mạng thỏng tỏm, hồn thơ của ụng đó trở nờn lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xõy dựng đất nước của nhõn dõn lao động: "Trời mỗi ngày lại sỏng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... 
Vẻ đẹp thiờn nhiờn nỗi ưu sầu nhõn thế, một nột thơ tiờu biểu của Huy Cận, được thể hiện khỏ rừ nột qua bài thơ "Tràng Giang". Đõy là một bài thơ hay, tiờu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cỏch mạng thỏng tỏm. Bài thơ được trớch từ tập "Lửa thiờng", được sỏng tỏc khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chốm sụng Hồng, nhỡn cảnh mờnh mụng súng nước, lũng vời vợi buồn, cỏm cảnh cho kiếp người nhỏ bộ, nổi trụi giữa dũng đời vụ định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nờn bài thơ vừa cú nột đẹp cổ điển lại vừa đượm nột hiện đại, đem đến sự thớch thỳ, yờu mến cho người đọc.
Bõng khuõng trời rộng nhớ sống dài
Súng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Khụng khúi hoàng hụn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đó khộo gợi lờn vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cỏch núi chệch đầy sỏng tạo của Huy Cận. Hai õm "anh" đi liền nhau đó gợi lờn trong người đọc cảm giỏc về con sụng, khụng chỉ dài vụ cựng mà cũn rộng mờnh mụng, bỏt ngỏt. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thỏi cổ điển trang nhó, gợi liờn tưởng về dũng Trường giang trong thơ Đường thi, một dũng sụng của muụn thuở vĩnh hằng, dũng sụng của tõm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nột cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cỏi mờnh mụng súng nước, khụng như cỏc nhà thơ mới thường thể hiện cỏi tụi của mỡnh. Nhưng nếu cỏc thi nhõn xưa tỡm đến thiờn nhiờn để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tỡm về thiờn nhiờn để thể hiện nổi ưu tư, buồn bó về kiếp người cụ đơn, nhỏ bộ trước vũ trụ bao la. Đú cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tỏc phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Cõu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đó thõu túm được cảm xỳc chủ đạo của cả bài: "Bõng khuõng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sụng dài" sao mà bỏt ngỏt, mờnh mụng của thiờn nhiờn, lũng con người dấy lờn tỡnh cảm "bõng khuõng" và nhớ. Từ lỏy "bõng khuõng" được sử dụng rất đắc địa, nú núi lờn được tõm trạng của chủ thể trữ tỡnh, buồn bó, u sầu, cụ đơn, lạc lừng. Và con "sụng dài", nghe miờn man tớt tắp ấy cứ vỗ súng đều đặn khắp cỏc khổ thơ, cứ cuộn súng lờn mói trong lũng nhà thơ làm rung động trỏi tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đó bắt gặp những con súng lũng đầy ưu tư, sầu nóo như thế:
Súng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuụi mỏi nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khụ lạc mấy dũng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khỏ rừ ngay từ bốn cõu đầu tiờn này. Hai từ lỏy nguyờn "điệp điệp", "song song" ở cuối hai cõu thơ mang đậm sắc thỏi cổ kớnh của Đường thi. Và khụng chỉ mang nột đẹp ấy, nú cũn đầy sức gợi hỡnh, gợi liờn tưởng về những con súng cứ loang ra, lan xa, gối lờn nhau, dũng nước thỡ cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miờn man miờn man. Trờn dũng sụng gợi súng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuụi mỏi", lững lờ trụi đi. Trong cảnh cú sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mờnh mụng của thiờn nhiờn, một dũng "tràng giang" dài và rộng bao la khụng biết đến nhường nào.
Dũng sụng thỡ bỏt ngỏt vụ cựng, vụ tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lũng
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khụ lạc mấy dũng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trụi đi nhờ nước xụ, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lỡa, xa cỏch "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xút xa.
Chớnh lẽ vỡ thế mà gợi nờn trong lũng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hụ ứng cựng từ chỉ số "mấy" đó thổi vào cõu thơ nỗi buồn vụ hạn.
Tõm hồn của chủ thể trữ tỡnh được bộc lộ đầy đủ nhất qua cõu thơ đặc sắc: "Củi một càng khụ lạc mấy dũng". Huy Cận đó khộo dựng phộp đảo ngữ kết hợp với cỏc từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cụ đơn, lạc lừng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lờn sự ớt ỏi, nhỏ bộ, "cành khụ" gợi sự khụ hộo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vụ định, trụi nổi, bập bềnh trờn "mấy dũng" nước thiờn nhiờn rộng lớn mờnh mụng. Cành củi khụ đú trụi dạc đi nơi nào, hỡnh ảnh giản dị, khụng tụ vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lũng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn cụi.
Nột đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tỡnh" thật khộo lộo, tài hoa của tỏc giả, đó gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con súng sẽ cũn vỗ mói ở cỏc khổ thơ cũn lại để người đọc cú thể cảm thụng, thấu hiểu về một nột tõm trạng thường gặp ở cỏc nhà thơ mới. Nhưng bờn cạnh đú ta cũng nhỡn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đú là ở cỏch núi "Củi một cành khụ" thật đặc biệt, khụng chỉ thõu túm cảm xỳc của toàn khổ, mà cũn hộ mở tõm trạng của nhõn vật trữ tỡnh, một nỗi niềm đơn cụi, lạc lừng.
Nỗi lũng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hỡnh ảnh quạnh vắng của khụng gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ giú đỡu hiu
Đõu tiếng làng xa vón chợ chiều.
Hai từ lỏy "lơ thơ" và "đỡu hiu" được tỏc giả khộo sắp xếp trờn cựng một dũng thơ đó vẽ nờn một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ớt ỏi, bộ nhỏ "đỡu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", giú thỡ "đỡu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiờu điều ấy, con người trở nờn đơn cụi, rợn ngộp đến độ thốt lờn "Đõu tiếng làng xa vón chợ chiều". Chỉ một cõu thơ mà mang nhiều sắc thỏi, vừa gợi "đõu đú", õm thanh xa xụi, khụng rừ rệt, cú thể là cõu hỏi "đõu" như một nỗi niềm khao khỏt, mong mỏi của nhà thơ về một chỳt sự hoạt động, õm thanh sự sống của con người. Đú cũng cú thể là "đõu cú", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đõy chẳng hề cú chỳt gỡ sống động để xua bớt cỏi tịch liờu của thiờn nhiờn.
Đụi mắt nhõn vật trữ tỡnh nhỡn theo nắng, theo dũng trụi của sụng:
"Nắng xuống, trời lờn sõu chút vút, 
Sụng dài, trời rộng, bến cụ liờu."
"Nắng xuống, trời lờn" gợi sự chuyển động, mở rộng về khụng gian, và gợi cả sự chia lỡa: bởi nắng và trời mà lại tỏch bạch khỏi nhau. "sõu chút vút" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sỏng tạo của Huy Cận, mang một nột đẹp hiện đại. Đụi mắt nhà thơ khụng chỉ dừng ở bờn ngoài của trời, của nắng, mà như xuyờn thấu và cả vũ trụ, cả khụng gian bao la, vụ tận. Cừi thiờn nhiờn ấy quả là mờnh mụng với "sụng dài, trời rộng", cũn những gỡ thuộc về con người thỡ lại bộ nhỏ, cụ đơn biết bao: "bến cụ liờu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua cỏc thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sụng, trời, nắng, cuộc sụng cún người thỡ buồn tẻ, chỏn chường với "vón chợ chiều", mọi thứ đó tan ró, chia lỡa.
Nhà thơ lại nhỡn về dũng sụng, nhỡn cảnh xung quanh mong mỏi cú chỳt gỡ quen thuộc mang lại hơi ấm cho tõm hồn đang chỡm vào giỏ lạnh, về cụ đơn. Nhưng thiờn nhiờn đó đỏp trả sự khao khỏt ấy bằng những hỡnh ảnh càng quạnh quẽ, đỡu hiu:
Bốo dạt về đõu, hàng nối hàng,
Mờnh mụng khụng một chuyến đũ ngang. 
Khụng cần gợi chỳt niềm thõn mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bói vàng.
Hỡnh ảnh cỏnh bốo trụi bồng bềnh trờn sụng là hỡnh ảnh thường dựng trong thơ cổ điển, nú gợi lờn một cỏi gỡ bấp bờnh, nổi trụi của kiếp người vụ định giữa dũng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận khụng chỉ cú một hay hai cỏnh bốo, mà là "hàng nối hàng". Bốo trụi hàng hàng càng khiến lũng người rợn ngộp trước thiờn nhiờn, để từ đú cừi lũng càng đau đớn, cụ đơn. Bờn cạnh hàng nối hàng cỏnh bốo là "bờ xanh tiếp bói vàng" như mở ra một khụng gian bao la vụ cựng, vụ tận, thiờn nhiờn nối tiếp thiờn nhiờn, dường khụng cú con người, khụng cú chỳt sinh hoạt của con người, khụng cú sự giao hoà, nối kết:
Mờnh mụng khụng một chuyến đũ ngang
Khụng cầu gợi chỳt niềm thõn mật.
Tỏc giả đưa ra cấu trỳc phủ định. "...khụng...khụng" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đõy khụng cú chỳt gỡ gợi niềm thõn mật để kộo mỡnh ra khỏi nỗi cụ đơn đang bao trựm, võy kớn, chỉ cú một thiờn nhiờn mờnh mụng, mờnh mụng. Cầu hay chuyến đũ ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đó bị cừi thiờn nhiờn nhấn chỡm, trụi đi nơi nào.
Huy Cận lại khộo vẽ nột đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trờn cao:
Lớp lớp mõy cao đựn nỳi bạc, 
Chim nghiờng cỏnh nhỏ búng chiều sa.
Bỳt phỏp chấm phỏ với "mõy cao đựn nỳi bạc" thành "lớp lớp" đó khiến người đọc tưởng tượng ra những nỳi mõy trắng được ỏnh nắng chiếu vào như dỏt bạc. Hỡnh ảnh mang nột đẹp cổ điển thật trữ tỡnh và lại càng thi vị hơn khi nú được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mõy đựn cửa ải xa.
Huy Cận đó vận dụng rất tài tỡnh động từ "đựn", khiến mõy như chuyển động, cú nội lực từ bờn trong, từng lớp từng lớp mõy cứ đựn ra mói. Đõy cũng là một nột thơ đầy chất hiện đại, bởi nú đó vận dụng sỏng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nột hiện đại càng bộc lộ rừ hơn qua dấu hai chấm thần tỡnh trong cõu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và búng chiều: Chim nghiờng cỏnh nhỏ kộo búng chiều, cựng sa xuống mặt tràng giang, hay chớnh búng chiều sa, đố nặng lờn cỏnh chim nhỏ làm nghiờng lệch cả đi. Cõu thơ tả khụng gian nhưng gợi được thời gian bởi nú sử dụng "cỏnh chim" và "búng chiều", vốn là những hỡnh tượng thẩm mỹ để tả hoàng hụn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đú, người đọc lại bắt gặp nột tõm trạng hiện đại:
Lũng quờ dợn dợn vời con nước, 
Khụng khúi hoàng hụn cũng nhớ nhà.
"Dợn dợn" là một từ lỏy nguyờn sỏng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đú. Từ lỏy này hụ ứng cựng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bõng khuõng, cụ đơn của "lũng quờ". Nỗi niềm đú là nỗi niềm nhớ quờ hương khi đang đứng giữa quờ hương, nhưng quờ hương đó khụng cũn. Đõy là nột tõm trạng chung của nhà thơ mới lỳc bõy giờ, một nỗi lũng đau xút trước cảnh mất nước.
Bờn cạnh tõm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ cõu thơ: "Trờn sụng khúi súng cho buồn lũng ai" của Thụi Hiệu. Xưa Thụi Hiệu cần vịn vào súng để mà buồn, mà nhớ, cũn Huy Cận thỡ buồn mà khụng cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nú đó sõu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lũng yờu quờ hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hụm nay.
Cả bài thơ vừa mang nột đẹp cổ điển, vừa mang nột hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cỏch dựng từ lỏy nguyờn, qua việc sử dụng cỏc thi liệu cổ điển quen thuộc như: mõy, sụng, cỏnh chim... Và trờn hết là cỏch vận dụng cỏc tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ khụng khớ cổ kớnh, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua cỏc cõu chữ sỏng tạo, độc đỏo của nhà thơ như "sõu chút vút", dấu hai chấm thần tỡnh. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cựng là tõm trạng nhớ quờ hương ngay khi đứng giữa quờ hương, nột tõm trạng hiện đại của cỏc nhà tri thức muốn đúng gúp sức mỡnh cho đất nước mà đành bất lực, khụng làm gỡ được.
Bài thơ sẽ cũn mói đi vào lũng người với phong cỏch tiờu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhó sõu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lũng yờu nước, yờu quờ hương.
(Sưu tầm)

Tài liệu đính kèm:

  • docTong hop van 11.doc