Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa
(Kinh tế) - Kinh tế tri thức xuất hiện như một thời đại kinh tế mới, với một nguyên lý sáng tạo của cải hoàn toàn khác với các thời đại kinh tế nông nghiệp hoặc công nghiệp trước đó. Nó dựa trên sự dẫn dắt của nguồn lực trí tuệ và khả năng kết nối sâu, rộng trên không gian toàn cầu. Điều đó khiến cho toàn cầu hóa trở thành một quá trình khó đảo ngược, diễn tiến nhanh, sâu, rộng và vận hành trên cơ sở của chính nó - một nền kinh tế tri thức, mang bản chất toàn cầu. Trong bối cảnh của một thời đại như vậy, một nước đang phát triển như Việt Nam, dù có điểm xuất phát thấp, cũng sẽ bị đặt một cách tự nhiên vào “trường” tương tác của nền kinh tế tri thức và buộc phải xem xét lại các khía cạnh khác nhau của tư duy phát triển. Để tiến bước theo yêu cầu của thời đại, việc đổi mới thể chế nhằm tăng cường năng lực hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế giới là không tránh khỏi.
1. Mở đầu
Toàn cầu hóa không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới. Nó đã từng xuất hiện như một làn sóng lôi cuốn và kết nối các nguồn lực kinh tế của các quốc gia khác nhau ngay từ cuối thế kỷ thứ XIX. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã mang một diện mạo khác hẳn trước. Nó dần trở thành một thuộc tính bên trong của kinh tế tri thức, hơn là một quá trình tồn tại song song với kinh tế tri thức. Nhờ vậy, nó góp phần định hình kinh tế tri thức không đơn giản chỉ như là một bước phát triển mới của lực lượng sản xuất mà như là một thời đại kinh tế mới, một cung cách sáng tạo của cải mới, chứa đựng những đảo lộn vô cùng to lớn trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội loài người. Từ đó, kinh tế tri thức có khả năng lôi cuốn mọi quốc gia vào quỹ đạo của nó, buộc chúng phải thích ứng bằng cách thay đổi cách thức và con đường phát triển của mình. Bàn luận về những vấn đề đó, bài báo này muốn rút ra một vài hàm ý có ý nghĩa đối với sự lựa chọn phát triển của Việt Nam.
2. Thời đại kinh tế tri thức
Một cách tổng quát, có thể coi tổng sản lượng mà một quốc gia có thể tạo ra trong một khoảng thời gian nào đó phụ thuộc vào các nguồn lực đầu vào mà quốc gia đó có thể huy động và khai thác. Nó có thể diễn đạt dưới dạng một hàm sản xuất của xã hội: Q = f (L, K, NR, T.), trong đó, Q là tổng sản lượng đầu ra, L là số lượng lao động cơ bắp, K: lượng vốn hiện vật, NR: lượng tài nguyên thiên nhiên, T: tri thức - công nghệ. Trong hàm sản xuất xã hội tổng quát này, tri thức là một nguồn lực của quá trình tạo ra của cải bên cạnh các nguồn lực khác: lao động (cơ bắp), vốn hiện vật, đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác.
Năng lực sản xuất của xã hội phụ thuộc vào tổng lượng các nguồn lực nói trên. Các nguồn lực có khả năng thay thế cho nhau cũng như bổ sung cho nhau. Các nguồn lực tự nhiên thường có giới hạn: diện tích đất đai dần dần bị con người khai thác hết và về cơ bản không còn khả năng mở rộng; trữ lượng các khoáng sản giảm dần, đặc biệt theo đà khai thác nhanh như hiện nay - việc tìm kiếm và phát hiện ra các mỏ khoáng sản mới vẫn có khả năng duy trì song cơ hội ngày càng hiếm. Dân số thế giới vẫn tăng lên song động thái là rõ ràng: ở các nước phát triển, dân số hầu như không tăng, còn ở các nước đang phát triển, sự gia tăng dân số đã vượt quá giới hạn cần thiết - trong trường hợp này, kiểm soát, hạn chế sự gia tăng dân số thậm chí còn có ý nghĩa tích cực hơn đối với phát triển. Chỉ có vốn và tri thức là có khả năng tích lũy và tăng lên không ngừng. Tuy nhiên, khác với tri thức, vốn luôn bị hao mòn đi trong quá trình sử dụng. Vì thế, người ta luôn phải dùng một bộ phận nguồn lực để tái tạo, bù đắp lượng vốn bị hao mòn trong quá trình sản xuất trước khi thực sự gia tăng quỹ vốn. Tri thức là một nguồn lực đặc biệt, khác hẳn các nguồn lực khác: không bị cạn kiệt như nhiều loại tài nguyên thiên nhiên; không phải là một lượng tương đối cố định như đất đai; không bị hao mòn trong tiêu dùng như vốn; thậm chí tri thức mới có khả năng được tạo ra ngay trong quá trình tiêu dùng hay sử dụng các tri thức cũ.
C.Mác cho rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [3, tr.269]. Dựa vào luận điểm có tính chất phương pháp luận này, chúng tôi cho rằng: các thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng dùng loại nguồn lực gì mà ở chỗ nguồn lực nào đứng ở vị trí trung tâm, có tính chất chi phối, quyết định so với các nguồn lực khác trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng của cải. Trong các thời đại kinh tế khác nhau, tương quan và vị thế của các nguồn lực cũng là khác nhau. Xét về tổng thể, các bộ phận cấu thành của các nguồn lực trong hàm sản xuất xã hội là giống nhau. Tuy nhiên, theo sự tiến triển của lịch sử, quy mô, chất lượng, tính chất của mỗi bộ phận này và mối quan hệ giữa chúng dần dần biến đổi. Ở mỗi giai đoạn của lịch sử, luôn luôn có những nguồn lực đứng ở vị trí tiên phong, dẫn dắt hay chi phối quá trình tạo ra của cải. Khi một nguồn lực nổi lên ở vai trò dẫn dắt, nó buộc các nguồn lực khác phải đóng vai phụ, thích ứng theo và điều này tạo nên một cấu trúc sản xuất, một hệ thống kinh tế có những đặc trưng riêng về cách thức tạo dựng của cải.
Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa (Kinh tế) - Kinh tế tri thức xuất hiện như một thời đại kinh tế mới, với một nguyên lý sáng tạo của cải hoàn toàn khác với các thời đại kinh tế nông nghiệp hoặc công nghiệp trước đó. Nó dựa trên sự dẫn dắt của nguồn lực trí tuệ và khả năng kết nối sâu, rộng trên không gian toàn cầu. Điều đó khiến cho toàn cầu hóa trở thành một quá trình khó đảo ngược, diễn tiến nhanh, sâu, rộng và vận hành trên cơ sở của chính nó - một nền kinh tế tri thức, mang bản chất toàn cầu. Trong bối cảnh của một thời đại như vậy, một nước đang phát triển như Việt Nam, dù có điểm xuất phát thấp, cũng sẽ bị đặt một cách tự nhiên vào “trường” tương tác của nền kinh tế tri thức và buộc phải xem xét lại các khía cạnh khác nhau của tư duy phát triển. Để tiến bước theo yêu cầu của thời đại, việc đổi mới thể chế nhằm tăng cường năng lực hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế giới là không tránh khỏi. 1. Mở đầu Toàn cầu hóa không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới. Nó đã từng xuất hiện như một làn sóng lôi cuốn và kết nối các nguồn lực kinh tế của các quốc gia khác nhau ngay từ cuối thế kỷ thứ XIX. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã mang một diện mạo khác hẳn trước. Nó dần trở thành một thuộc tính bên trong của kinh tế tri thức, hơn là một quá trình tồn tại song song với kinh tế tri thức. Nhờ vậy, nó góp phần định hình kinh tế tri thức không đơn giản chỉ như là một bước phát triển mới của lực lượng sản xuất mà như là một thời đại kinh tế mới, một cung cách sáng tạo của cải mới, chứa đựng những đảo lộn vô cùng to lớn trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội loài người. Từ đó, kinh tế tri thức có khả năng lôi cuốn mọi quốc gia vào quỹ đạo của nó, buộc chúng phải thích ứng bằng cách thay đổi cách thức và con đường phát triển của mình. Bàn luận về những vấn đề đó, bài báo này muốn rút ra một vài hàm ý có ý nghĩa đối với sự lựa chọn phát triển của Việt Nam. 2. Thời đại kinh tế tri thức Một cách tổng quát, có thể coi tổng sản lượng mà một quốc gia có thể tạo ra trong một khoảng thời gian nào đó phụ thuộc vào các nguồn lực đầu vào mà quốc gia đó có thể huy động và khai thác. Nó có thể diễn đạt dưới dạng một hàm sản xuất của xã hội: Q = f (L, K, NR, T...), trong đó, Q là tổng sản lượng đầu ra, L là số lượng lao động cơ bắp, K: lượng vốn hiện vật, NR: lượng tài nguyên thiên nhiên, T: tri thức - công nghệ. Trong hàm sản xuất xã hội tổng quát này, tri thức là một nguồn lực của quá trình tạo ra của cải bên cạnh các nguồn lực khác: lao động (cơ bắp), vốn hiện vật, đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác. Năng lực sản xuất của xã hội phụ thuộc vào tổng lượng các nguồn lực nói trên. Các nguồn lực có khả năng thay thế cho nhau cũng như bổ sung cho nhau. Các nguồn lực tự nhiên thường có giới hạn: diện tích đất đai dần dần bị con người khai thác hết và về cơ bản không còn khả năng mở rộng; trữ lượng các khoáng sản giảm dần, đặc biệt theo đà khai thác nhanh như hiện nay - việc tìm kiếm và phát hiện ra các mỏ khoáng sản mới vẫn có khả năng duy trì song cơ hội ngày càng hiếm. Dân số thế giới vẫn tăng lên song động thái là rõ ràng: ở các nước phát triển, dân số hầu như không tăng, còn ở các nước đang phát triển, sự gia tăng dân số đã vượt quá giới hạn cần thiết - trong trường hợp này, kiểm soát, hạn chế sự gia tăng dân số thậm chí còn có ý nghĩa tích cực hơn đối với phát triển. Chỉ có vốn và tri thức là có khả năng tích lũy và tăng lên không ngừng. Tuy nhiên, khác với tri thức, vốn luôn bị hao mòn đi trong quá trình sử dụng. Vì thế, người ta luôn phải dùng một bộ phận nguồn lực để tái tạo, bù đắp lượng vốn bị hao mòn trong quá trình sản xuất trước khi thực sự gia tăng quỹ vốn. Tri thức là một nguồn lực đặc biệt, khác hẳn các nguồn lực khác: không bị cạn kiệt như nhiều loại tài nguyên thiên nhiên; không phải là một lượng tương đối cố định như đất đai; không bị hao mòn trong tiêu dùng như vốn; thậm chí tri thức mới có khả năng được tạo ra ngay trong quá trình tiêu dùng hay sử dụng các tri thức cũ. C.Mác cho rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [3, tr.269]. Dựa vào luận điểm có tính chất phương pháp luận này, chúng tôi cho rằng: các thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng dùng loại nguồn lực gì mà ở chỗ nguồn lực nào đứng ở vị trí trung tâm, có tính chất chi phối, quyết định so với các nguồn lực khác trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng của cải. Trong các thời đại kinh tế khác nhau, tương quan và vị thế của các nguồn lực cũng là khác nhau. Xét về tổng thể, các bộ phận cấu thành của các nguồn lực trong hàm sản xuất xã hội là giống nhau. Tuy nhiên, theo sự tiến triển của lịch sử, quy mô, chất lượng, tính chất của mỗi bộ phận này và mối quan hệ giữa chúng dần dần biến đổi. Ở mỗi giai đoạn của lịch sử, luôn luôn có những nguồn lực đứng ở vị trí tiên phong, dẫn dắt hay chi phối quá trình tạo ra của cải. Khi một nguồn lực nổi lên ở vai trò dẫn dắt, nó buộc các nguồn lực khác phải đóng vai phụ, thích ứng theo và điều này tạo nên một cấu trúc sản xuất, một hệ thống kinh tế có những đặc trưng riêng về cách thức tạo dựng của cải. Trong thời đại kinh tế nông nghiệp, do con người chỉ mới tích lũy được nguồn tri thức ít ỏi nên tri thức chỉ có một vị trí khiêm tốn trong quá trình sản xuất. Để khai thác tự nhiên, tạo ra những cái cần cho sự sinh tồn và phát triển của mình, con người buộc phải sử dụng các nguồn lực sẵn có trong tự nhiên: sức lao động cơ bắp, đất đai. Từ phương thức hái lượm, săn bắt đến biết cấy trồng, chăn nuôi gia súc, tuy là những bước tiến lớn trên con đường phát triển song về cơ bản, sản xuất vẫn là sự khai thác tự nhiên một cách trực tiếp. Tri thức con người dùng trong sản xuất chỉ là các tri thức kinh nghiệm đơn giản, ít ỏi. Vốn tri thức nghèo nàn của một nền sản xuất lặp đi, lặp lại, dựa trên việc khai thác các nguồn lực sẵn có của tự nhiên về bản chất là dễ học hỏi, dễ chuyển giao. Tốc độ tạo ra tri thức cũng như sự biến đổi của nền sản xuất xã hội diễn ra rất chậm. Trong điều kiện đó, chỉ cần có được một số ít tri thức kinh nghiệm sống cơ bản, người ta có thể đủ dùng trong suốt cả cuộc đời. Vì thế, giáo dục dài hạn, qua trường học để “tạo ra” tri thức cho người lao động không phải là một yêu cầu thiết yếu của sản xuất (không phải ngẫu nhiên, trong các xã hội nông nghiệp, đại bộ phận dân cư là mù chữ). Công cụ sản xuất là những công cụ thô sơ, thủ công, sử dụng sức người hay động vật. Khả năng khai thác, chinh phục tự nhiên của xã hội hết sức hạn chế. Năng suất lao động thấp, cuộc sống của đại bộ phận dân chúng là nghèo khổ, luôn bị đe dọa bởi thiên tai hay các lực lượng tự nhiên. Của cải được tạo ra nhiều hay ít chủ yếu phụ thuộc vào việc khai thác lao động cơ bắp và đất đai. Đất đai, lao động thủ công - cơ bắp là phương tiện sinh tồn hàng đầu nên chiếm đoạt đất đai và nô lệ là đối tượng chủ yếu của các cuộc chiến tranh. Do dựa vào nông nghiệp thủ công nên dân chúng chủ yếu sống ở nông thôn, theo những cộng đồng nhỏ hẹp, tương đối khép kín, mang tính chất tự cung, tự cấp. Không gian kinh tế của xã hội là chật hẹp tương ứng với tính chất khó di chuyển hay di chuyển chậm chạp của các nguồn lực và sản phẩm của chúng do sự vận chuyển chủ yếu là dựa vào sức người hay sức súc vật. Xã hội ít biến đổi hay chỉ biến đổi một cách chậm chạp. Trong thời đại kinh tế công nghiệp, với sự ra đời của máy móc, sức mạnh khai thác tự nhiên của con người tăng lên gấp bội. Con người dùng máy móc khác nhau để biến các tài nguyên thiên nhiên thành của cải, dùng ô tô, tàu hỏa hay các phương tiện cơ giới để đi lại, vận chuyển. Sức sản xuất của xã hội tăng lên nhanh chóng. Sản xuất ngày càng có tính chất hàng loạt, nhất là từ khi điện được phát minh để trở thành loại năng lượng tiện dụng, để thích ứng với năng lực to lớn của những máy móc. Nền sản xuất được chuyên môn hóa cao theo kiểu mỗi người đều cố gắng sản xuất cho người khác, cho thị trường. Các cộng đồng kinh tế nhỏ hẹp, tự cấp dần dần bị phá vỡ, nhường chỗ cho nền kinh tế mang tầm quốc gia. Các đô thị xuất hiện ngày càng nhiều, và càng ngày càng trở thành trung tâm của đời sống kinh tế - xã hội. Năng suất lao động được nâng cao cho phép xã hội dần dần vượt qua được ngưỡng sinh tồn, có tích lũy. Trên cơ sở tích lũy và đầu tư, dự trữ vốn của nền kinh tế ngày càng gia tăng và điều này tạo ra sự tăng trưởng dài hạn thực sự cho các nền kinh tế công nghiệp. Một xã hội có khả năng duy trì sự biến đổi liên tục, không ngừng trên nền tảng phát minh và ứng dụng khoa học, công nghệ cho đến lúc này mới thực sự hình thành. Tri thức giờ đây trở nên quan trọng hơn, có ảnh hưởng lớn hơn đến các tiến trình kinh tế. Tham gia vào quá trình này, người lao động cần được đào tạo và trang bị những kiến thức nhất định. Giáo dục đại chúng trở thành một thành tố thiết yếu của sản xuất xã hội. Đương nhiên, với những biến đổi nói trên, trong các nền kinh tế công nghiệp, yếu tố dẫn dắt quá trình kinh tế không còn là đất đai hay sức lao động thủ công, cơ bắp. Khi sức mạnh của con người trong việc tạo dựng của cải được nhân lên gấp bội trong máy móc, việc tạo ra máy móc và những điều kiện để hệ thống sản xuất dựa máy móc hoạt động mới là quan trọng. Hệ thống năng lượng là một trong những điều kiện thiết yếu như vậy. Trong nền kinh tế nông nghiệp, năng lượng trực tiếp dựa trên sức người và sức động vật chỉ tạo ra được những sức mạnh hạn chế. Với việc phát minh ra máy hơi nước, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra là khởi đầu cho thời đại kinh tế công nghiệp. Hệ thống sản xuất dựa trên các động cơ hơi nước gắn liền với việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng từ than đá. Trong bước quá độ này, những đầu tàu đầu tiên của nền kinh tế thế giới là những nước mà người ta có thể dễ dàng tiếp cận đến nguồn năng lượng này như nước Anh và sau đó là nước Đức. Ở những nơi này, nguồn tài nguyên than đá là dồi dào, dễ khai thác, khiến cho việc triển khai kỹ thuật sản xuất mới trở thành hiện thực. Tầm quan trọng đối với sản xuất của các nguồn lực tự nhiên như đất đai, lao động cơ bắp chuyển dịch dần sang những loại tài nguyên thiên nhiên khác như than đá ở thời kỳ đầu cũng như dầu mỏ (năng lượng) hay sắt thép (nguyên liệu) ở thời kỳ sau. Có lẽ vì chú ý đến điều này mà một số nhà kinh tế gọi thời đại kinh tế công nghiệp là giai đoạn kinh tế tài nguyên - giai đoạn mà sự phát triển kinh tế dựa chủ yếu trên sự chiếm hữu và phân phối các tài nguyên thiên nhiên [8, tr.36 - 38]. Tuy nhiên cách nhìn nhận như vậy là không thỏa đáng. Vấn đề là ở chỗ phương thức tạo ra của cải của thời đại kinh tế nông nghiệp là dựa trên việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách trực tiếp, gắn liền với sức mạnh cơ bắp tự nhiên của con người hay động vật. Trong giới hạn đó, đất đai dùng để trồng trọt hay chăn nuôi là tài nguyên thiên nhiên dễ khai thác nhất, và trở nên là quan trọng nhất. Trong nền kinh tế công nghiệp, với việc phát minh ra máy móc, một nguyên lý sản xuất của cải khác được tạo ra. Sức mạnh mà con người dùng đ ... thức trong các nguồn lực phát triển. Cái gọi là toàn cầu hóa trước đây vẫn dựa trên nguyên lý của nền kinh tế công nghiệp, đại cơ khí, sản xuất tập trung, hàng loạt. Nó vẫn lấy các nền kinh tế quốc gia làm chủ thể kinh tế chính để thực hiện các mối liên kết kinh tế quốc tế, chủ yếu là về thương mại. Làn sóng toàn cầu hóa mới dựa trên một nguyên lý khác hẳn - nguyên lý của nền kinh tế tri thức, lấy trí tuệ và sự kết nối làm nền tảng của sự sáng tạo của cải. Giờ đây, chính không gian kinh tế toàn cầu, chính nền kinh tế thế giới toàn cầu mà đại diện tiêu biểu là các công ty xuyên quốc gia mới là sân chơi chính, chủ thể kinh tế chính, có ý nghĩa chi phối. Trong bối cảnh các đường biên giới kinh tế quốc gia nhạt nhòa dần, các nền kinh tế quốc gia buộc phải trở thành các bộ phận cấu thành, phụ thuộc của một nền kinh tế chung. Như đã nói, kinh tế tri thức về bản chất là nền kinh tế toàn cầu, thì chỉ đến khi kinh tế tri thức định hình, toàn cầu hóa mới có hình thái xác định, chín muồi của nó. Kể từ đây nó sẽ trở thành một xu hướng không thể đảo ngược, tự vận hành trên cơ sở của chính mình, khác hẳn với những làn sóng toàn cầu hóa trước đây. Vì lẽ đó, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, quá trình toàn cầu hóa thực sự đồng nghĩa với tiến trình định hình và phát triển nền kinh tế tri thức. 4. Một vài hàm ý Trong nền kinh tế công nghiệp, khi không gian của các hoạt động kinh tế thích hợp là ở tầm vực quốc gia, hiển nhiên các nhà nước quốc gia đóng vai trò quan trọng. Nhà nước là người tạo ra và thực thi các luật lệ quốc gia, xây dựng và triển khai các chính sách phát triển quốc gia, phục vụ các lợi ích quốc gia. Sức mạnh của các nhà nước quốc gia là không thể nghi ngờ. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường thể chế và pháp lý cần thiết để cho các quan hệ kinh tế thị trường có thể vận hành được. Nhà nước cũng đứng ra cung cấp các hàng hóa công cộng quốc gia mà thị trường không cung cấp được hoặc cung cấp không hiệu quả. Nhà nước thực hiện các hoạt động điều tiết (chống độc quyền, kiểm soát ô nhiễm, khuyến khích giáo dục...) nhằm sửa chữa các thất bại thị trường. Các chính sách của nhà nước như chi tiêu và thuế khóa... có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, duy trì việc làm, ổn định hóa và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như thực hiện công bằng xã hội. Thời đại kinh tế tri thức - toàn cầu sẽ định vị lại vai trò của các nhà nước quốc gia. Khi các đường biên giới quốc gia ít có ý nghĩa kinh tế đối với sự di chuyển các nguồn lực và hàng hóa, khái niệm chủ quyền quốc gia tự nó đã thay đổi. Các nhân tố chung, có tính toàn cầu càng ngày càng can dự sâu vào đời sống của mỗi quốc gia, vào các quyết định quốc gia. Sự trồi sụt trong sản lượng dầu khai thác ở Trung Đông có thể làm chao đảo nền kinh tế của nhiều nước. Sự phá sản của một loạt ngân hàng/công ty ở Mỹ vào năm 2008 đã kéo nền kinh tế thế giới vào cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp khiến cho gần như cả Châu Âu và nhiều nước khác phải lo lắng. Thu nhập của người nông dân trồng cà phê ở Việt Nam hóa ra phụ thuộc chủ yếu vào sản lượng sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Brasil. Khi các quốc gia hay công ty xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế/kinh doanh của mình, tình hình và môi trường kinh tế chung của nền kinh tế thế giới ngày càng là những biến số quan trọng nhất buộc phải tính tới trước tiên. Đó là chưa kể những vấn đề như môi trường, bệnh tật, đói nghèo, tội phạm... ngày càng trở thành mối quan tâm chung toàn cầu, chi phối cách quan tâm và xử lý của mỗi quốc gia. Trong một “sân chơi” chung, người ta càng ngày càng bị chi phối bởi các luật lệ chung, các giá trị, chuẩn mực chung, các quy tắc chung. Quyền lực độc lập của các nhà nước quốc gia, nhất là ở các nước nhỏ và nghèo bị thu hẹp lại một cách nghiêm trọng. Một mặt, nó bị thách thức bởi các thể chế quốc tế có tính cạnh tranh: các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức hay định chế quốc tế, như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... các tổ chức phi chính phủ. Vai trò của các thể chế này tăng lên trong nền kinh tế toàn cầu đồng nghĩa với việc cắt giảm tương ứng quyền lực của các nhà nước quốc gia. Mặt khác, tính linh hoạt cần thiết nảy sinh từ sự biến đổi nhanh của các sự kiện kinh tế cũng buộc nhà nước càng ngày càng phải chia sẻ quyền lực của mình cho các tổ chức và thể chế phi nhà nước bên dưới trong nước. Các cộng đồng dân cư địa phương, các hiệp hội nghề nghiệp, các đoàn thể, các câu lạc bộ văn hóa hay thể thao... ngày càng có tiếng nói mạnh hơn trong việc ra quyết định hay thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước. Trong bối cảnh đó các chính sách điều tiết, kiểm soát các hoạt động kinh tế truyền thống (thuế, kiểm soát hành chính, kiểm soát cung ứng tiền, chính sách thương mại, đầu tư...) mà các nhà nước thường thực thi trước đây hiện nay ít mang tính độc lập hơn. Chẳng hạn, người ta giờ đây khó có thể nhân danh chủ quyền quốc gia để có thể đánh thuế cao vào hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước. Hàng rào thuế quan của từng nước phải hạ xuống hay tháo dỡ theo chuẩn mực quốc tế chung. Việc đánh thuế thu nhập cá nhân cũng vậy. Nếu một nước đánh thuế thu nhập quá cao vào công dân của mình, những vận động viên hay ca sỹ tài năng của nước này sẽ có xu hướng chuyển sang hành nghề ở nước khác, nơi mà các mức thuế thu nhập được coi là dễ chịu hơn. Sự di chuyển dễ dàng này không cho phép một nước có thể áp dụng một chính sách thuế biệt lập, lệch quá xa mặt bằng chung theo đúng chủ quyền hình thức của mình. Về nguyên tắc, mỗi nước vẫn có chủ quyền trong việc xây dựng một chính sách tiền tệ quốc gia độc lập. Thế nhưng nếu chính sách đó khiến cho lãi suất trong nước trở nên thấp hơn nhiều so với lãi suất thế giới, những dòng tiền tiết kiệm trong nước có thể ồ ạt chảy ra ngoài, để đến với những nơi người ta được thụ hưởng mức lãi suất cao hơn. Chính sách kiểm soát vốn sẽ ngày càng khó hơn trước xu hướng tự do hóa tài chính, nhằm làm nguồn vốn thế giới được phân bổ hiệu quả hơn trên phạm vi toàn cầu, trong điều kiện thị trường và công nghệ hiện đại cho phép nó dễ dàng di chuyển. Trong thế giới toàn cầu hóa của kinh tế tri thức, khi mà mỗi nước buộc phải hội nhập quốc tế, “sân chơi” nhà không còn là “chỗ chơi” riêng của các doanh nghiệp hay công dân trong nước. Từ bỏ hay nhượng lại một phần chủ quyền quốc gia là sự đánh đổi bắt buộc vì sự phát triển trong điều kiện mới. Rõ ràng vai trò của các nhà nước quốc gia bị thu hẹp và buộc phải thay đổi. Sự thay đổi vai trò của nhà nước quốc gia trong nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa dẫn đến một số hệ lụy, buộc người ta phải tư duy lại một số khái niệm cũ, quen thuộc trước đây. Những thuật ngữ như “độc lập”, “tự chủ”, “chủ quyền” hoặc là không còn thích hợp, hoặc phải mang một nội dung mới, khác trước. Trong một nền kinh tế có bản chất toàn cầu, mỗi nền kinh tế quốc gia không còn là một thực thể độc lập. Sự phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới chung, đang định hình rất nhanh khiến cho mỗi nền kinh tế, kể cả những nền kinh tế lớn nhất như nền kinh tế Mỹ cũng trở thành không độc lập. Điều đó cũng giống như trong nền kinh tế của thời đại công nghiệp, từng làng, xã hay các cộng đồng kinh tế địa phương không còn là những đơn vị kinh tế độc lập, mặc dù trước đó, trong thời đại kinh tế nông nghiệp chúng quả là những thực thể độc lập. Sự tiến triển của Liên minh Châu Âu (EU) dường như cho chúng ta thấy một hình mẫu nào đó của việc chuyển giao dần quyền lực độc lập của các nhà nước quốc gia cho một thể chế lớn hơn tầm vực quốc gia. Sự hình thành Cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AC), đặc biệt với trụ cột Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cũng đi theo logic này. Khi mà các nhà nước càng ngày càng ít có khả năng kiểm soát các nguồn lực trên lãnh thổ quốc gia của mình, khi mà sự di dân có thể thực hiện dễ dàng và ngày càng vượt khỏi tầm chi phối của các nhà nước (Bill Gates, Mark Zuckerburg... là những công dân Mỹ, song có lẽ đứng về phương diện kinh tế, về phạm vi các hoạt động kinh doanh của họ và tác động kinh tế mà chúng tạo ra, họ giống như những công dân toàn cầu nhiều hơn), khi mà các chính sách và luật lệ quốc gia, cũng như cách thức tổ chức đời sống chính trị ngày càng bị chi phối bởi các chính sách, luật lệ và các quy tắc chính trị chung (việc chúng ta phải sửa đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp với những yêu cầu của WTO để được quyền tham gia vào tổ chức này là một ví dụ), thì cái gọi là “chủ quyền quốc gia” đã không còn nội dung nguyên nghĩa như trước. Ngay ở thời điểm hiện nay, khi mà nền kinh tế tri thức mới trong giai đoạn định hình, về nguyên tắc, tuy mỗi nước đều có khả năng “tự quyết” trong việc xây dựng các chính sách và quy tắc phát triển của mình, song nếu các chính sách và quy tắc đó không phù hợp với “thông lệ quốc tế”, không phù hợp với các giá trị hay chuẩn mực toàn cầu, thì những nước này sẽ bị bỏ rơi khỏi tiến trình phát triển chung. Điều này là khách quan, bắt nguồn từ những đặc điểm của thời đại kinh tế mới. Cách nói xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vốn thích hợp với thời đại kinh tế cũ đang mất dần đi nội dung thực chất của nó trong điều kiện phát triển mới. 5. Kết luận Sự xuất hiện của kinh tế tri thức như một thời đại kinh tế mới, mang bản chất toàn cầu hóa, dựa trên những nguyên lý sáng tạo của cải hoàn toàn mới sẽ buộc chúng ta sẽ phải xem xét lại hầu hết mọi khía cạnh liên quan đến tư duy phát triển. Áp lực, sức lôi cuốn nhanh, mạnh của toàn cầu hóa gắn liền với kinh tế tri thức tác động sâu sắc đến mọi nước, mọi lĩnh vực. Nó buộc mỗi nước phải tích cực, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới nếu không muốn bị gạt ra bên lề của tiến trình phát triển chung. Nó tạo ra nhiều cơ hội cho các nước đi sau, song cũng đặt ra một loạt thách thức chưa từng có đối với các nước này. Tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, các nước nghèo có khả năng tiếp cận, tận dụng được các nguồn lực (vốn, công nghệ/tri thức, phương cách quản lý hiện đại...) và thị trường quốc tế để phát triển. Các nguồn lực nội địa như nguồn nhân lực có thể được nâng cấp và gia tăng chất lượng nhanh hơn bằng những phương thức mới có tính thời đại (thông qua việc tiếp cận đến các phương thức đào tạo, giáo dục tiên tiến, đặc biệt qua internet). Những cơ hội như vậy chỉ thật sự có tầm quan trọng to lớn trong nền kinh tế tri thức toàn cầu, nơi mà các nguồn lực có tính cơ động cực kỳ cao và bị chi phối bởi tri thức. Ngược lại, thời đại toàn cầu hóa với đặc trưng là tốc độ của những biến đổi trở nên cực kỳ cao cũng tạo ra nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn đối với các nước đang phát triển. Thách thức lớn nhất trong phát triển đối với những nước này lại nằm ở khả năng đứng ngoài nền kinh tế thế giới hoặc thiếu năng lực để thực sự hội nhập vào nó. Với điều sau cùng, việc tích cực, chủ động hội nhập chủ yếu phải được đo bằng những đổi mới thể chế kinh tế và chính trị tương ứng, phù hợp với nguyên lý của thời đại kinh tế tri thức để tạo ra và tăng cường năng lực hội nhập
Tài liệu đính kèm: