Đỗ Phủ - Tiểu sử và sự nghiệp

Đỗ Phủ - Tiểu sử và sự nghiệp

 ĐỖ PHỦ

 712 - 770

I.Thân thế

 Đỗ Phủ tự là Tử Mĩ,sinh năm đầu tiên Tiên Thiên(712),đời Đường Duệ Tông.Quê ở huyện Củng tỉnh Hà nam.Xuất thân từ một gia đình phong kiến quan liêu “thờ đạo nho và làm quan” suốt mấy đời.Ông nội Đỗ Phủ là nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngônt thời sơ Đường.

 Từ năm 20 tuổi ông lần lượt ngao du mười mấy năm trời suốt vùng Ngô,Việt,Tề,Triệu.

 Năm Thiên Bảo thứ ba(744),ông gặp Lý Bạch ở lạc Dương.Hai người nảy sinh tình cảm như anh em.Năm sau hai người chia tay ở Quận lỗ(Duyện Châu – Sơn Đông) rồi không gặp nhau nữa.Từ đó Đỗ Phủ luôn tưởng nhớ tới người bạn siêu thoát khác thường ấy.

 

doc 3 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 6235Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đỗ Phủ - Tiểu sử và sự nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 đỗ phủ
 712 - 770 
I.Thân thế
	Đỗ Phủ tự là Tử Mĩ,sinh năm đầu tiên Tiên Thiên(712),đời Đường Duệ Tông.Quê ở huyện Củng tỉnh Hà nam.Xuất thân từ một gia đình phong kiến quan liêu “thờ đạo nho và làm quan” suốt mấy đời.Ông nội Đỗ Phủ là nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngônt thời sơ Đường.
	Từ năm 20 tuổi ông lần lượt ngao du mười mấy năm trời suốt vùng Ngô,Việt,Tề,Triệu.
	Năm Thiên Bảo thứ ba(744),ông gặp Lý Bạch ở lạc Dương.Hai người nảy sinh tình cảm như anh em.Năm sau hai người chia tay ở Quận lỗ(Duyện Châu – Sơn Đông) rồi không gặp nhau nữa.Từ đó Đỗ Phủ luôn tưởng nhớ tới người bạn siêu thoát khác thường ấy.
	Năm 746 ông đến Trường An,sau đó ông ra ứng thí.Xong triều đình không lấy người hiền,ông đâm ra chán ghét.
	Ông sống cơ cực ở Trường An tới tận năm 40 tuổi thì gặp lúc Đường Huyền Tông cử hành một cuộc đại lễ.Ông liền dâng 3 bài phú và đã được vua khen cho vào tận hiền viện chờ thi sẽ bổ dụng.Nhưng viên quan Lý Lâm Phủ lại cản trở ông.
	Trong những năm đói rét ông sống gần nhân dân,ông thấu hiểu được nỗi thống khổ của nhân dân lớp dưới.Ông viết binh xa hành(bài ca chiến xa),ông căm ghét bọn thống trị lớp trên.
	Sống nghèo khổ ở Trường An gần 10 năm,ông mới được nhận một chức quan nhỏ quản lý kho quân giới(Hữu vệ soái phủ trụ tào tham quân).Nhận chức xong ông về Phụng Thiền(Thiểm Tây) thăm gia đình.Đúng lúc cuộc chiến nổi loạn của An lộc Sơn nảy sinh ở Phạm Dương chúng đánh vào Trường An.Ông mang vợ con theo đoàn người bị nạn nếm đủ cay đắng.Cuối cùng ông để gia đình ở Khương Thôn,Phu Châu rồi một mình đi về phía bắc đến Linh Vũ,định đi tìm Đường Túc Tông(Lý Hanh) vừa lên ngôi,giữa đường ông bị quân phản nghịch bắt mang về Trường An.Nhà thơ đau đớn vô cùng,liều mạnh vượt chiến tuyến của quân phiến loạn và quân Đường,trốn khỏi Trường An.Vượt qua bao chông gai đến Phượng Tường.Ông đến bái kiến Đường Túc Tông,ông được phong Tả Thập Di.Sau đó lấy được Trường An và Lạc Dương,ông đưa gia đình về Trường An.
	Quãng đường đau khổ từ tháng 11 năm 755 đến tháng 9 năm 757,chưa đầy 2 năm cơn bão táp lịch sử đã tôi luyện ông trở thành một nhà thơ vĩ đại của nền văn học cổ đại Trung Quốc.
	Sau khi về Trường An,ông và gia đình gần gũi nhà vua nên thơ ông không còn hay như trước,một số bài có âm vị cung đình.,tư tưởng hành lạc.Sau đó ông bị đả kích về chính trị,ông rời xa Trường An đến sống với những con người bị áp bức,thơ ông lại toả sáng.
	Đời Đường Túc Tông,năm Càn Nguyên thứ 2(759),ông từ quan,cả nhà mang nhau đi lưu lạc ở Tần Châu - Đồng Cốc.Đến thành đô ông dựng lều cỏ bên bờ suối Cán hoa phía tây thành.ở đây ông trồng ngô,trồng thuốc,quan hệ với nhân dân.Thiên nhiên,tình người đã vỗ về,an ủi tâm hồn ông.Ông làm nhiều thơ điền viên rất cảm động.Đến mùa thu lều bị cuốn.
	Năm Bảo ứng thứ nhất(762) Thiếu Doãn thành đô là Từ Tri Đạo nổi lên làm loạn,nhà thơ phải lưu lạc ở Tử Châu – Lãng Châu.Ông định rời nước Thục,thì người bạn là Nghiêm Cũ đến trấn thủ Tứ Xuyên,ông đã bỏ ý định đó.
Ông được bạn cất nhắc làm Tiết độ tham mưu kiểm hiệu công bộ viên ngoại lang.ít lâu sau bạn chết,ông phiêu dạt lên Quỳ Châu(Tứ Xuyên).Tại Quỳ Châu ông viết thơ hồi tưởng cuộc sống thời trẻ gồm 8 bài Thu hứng.
Năm 768,năm đại lịch thứ 3,ông rời Quỳ Châu rồi quanh quẩn ở Giang Lăng,Công An,Nhạc Châu,Hành Châu.Đói khát bệnh tật giày vò,mái tóc đã bạc,sức khoẻ giảm sút nhiều.Mùa đông năm 770 đời Đường Đại Tông(Lý Dự)trong chiếc thuyền con trên sông Tương nhà thơ đã vĩnh viễn ngừng ca hát.
II.Nội dung tư tưởng trong thơ Đỗ Phủ
	Thơ ông phản ánh chân thực cảnh tượng xã hội trong quá trình chuyển biến từ thịnh đến suy vong của xã hội phong kiến đời Đường,vì thế được gọi là “thi sử”.
	Ông rất mực yêu nhân dân,cùng nhân dân nếm trải loạn lạc,ông căm ghét xã hội phong kiến.
	Lời thơ cô đọng,xúc tích,giàu cảm xúc.Ông ca ngợi nhân dân:
	“Dọc đường chỉ nghe khóc
	Thành thị vắng tiếng ca” (Chinh phu)
	Ông chỉ rõ loạn lạc xã hội gay gắt:
	Tam lại;Tuồng quan lại,Tân an lại,Thạch hào lại
	Tam biệt:Thuỳ lão biệt,Tân hôn biệt,Vô qua biệt
	Ông là nhà thơ chính trị vĩ đại nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc.Đôi lúc do cuộc sống nặng nề,ông cũng có đôi chút ý nghĩ tiêu cực.
	Ông là người kết hợp nghệ thuật và chính trị đến mức độ cao.Ông có phạm vi sáng tác rộng.Ngoài những bài lấy việc trọng đại trong xã hội làm chủ đề.Ông còn viết về nhiều mặt khác như:cảm hoài,tống tặng,vịnh vật,đề hoạ,đăng lâm,hoài cổ.
	Ông làm nhiều bài thơ nhớ Lý Bạch,bài nào cũng hay.Bài “Bất kiến”là bài cuối:
	“Lâu lắm không gặp Lý
	Giả cuồng tội nghiệp thay
	Người đời đều muốn giết
	Ta ý vẫn thương tài”
	Ông có tài viết về thiên nhiên:
	“Lác đác rừng phong hạt móc sa
	Ngàn non heo hắt khí thu nhoà
	Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
	Mặt đất mây đùn cửa ải xa
	Khóm trúc tuôn thêm dòng lệ cũ
	Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
	Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
	Thạch bàn chày vang bóng ác tà”
 (Thu hứng 8 bài – Bài 1)
	“Hồn hậu,hàm súc,tràn đầy mênh mông,thâu tóm nuôn hình vạn trạng,cổ kim đều có cả”(Tân đường thư).
	Ông là người tôn thờ tư tưởng đạo nho,ông tự hào về gia đình,ông lấy lí tưởng nho giáo làm mý tưởng của mình.
	“Tài mình tưởng chẳng mấy
	Sẽ nắm quyền trị dân
	Giúp vua vượt Nghiêu,Thuấn
	Lại cho phong tục thuần”
	Ông mang tư tưởng “dân quý quân khinh” “giúp thời cứu mình”,xong ông rất gần gũi nhân dân,học làm nghề nông.
	Ông là một nhà thơ vĩ đại không có những hạn chế về thế giới quan,về tư tưởng và sáng tác,có nhiều cống hiến mới mẻ.
III.Thành tựu nghệ thuật thơ ca Đỗ Phủ
	“Sách đọc vỡ muôn quyển
	Hạ bút như có thần”
	Ông là người có kinh nghiệm,sự tu dưỡng tri thức,bất kể ngũ ngôn,thất ngôn,cổ thể,cận thểđều được ông thể hiện thành công.
	Ông thường nói:
	“Không khinh người nay,yêu người xưa
	Học được nhiều thấy yêu mới hay”
	Thơ ca ông kế thừa và phát triển truyền thống hiện thực của văn hoá Trung Quốc từ kinh thi trở đi đạt mức độ chưa từng thấy.Thơ ông chứa chan không khí cuộc sống hiện thực mãnh liệt,ngòi bút của ông khách quan.
	Qua hơn 1.400 bài thơ ông để lại hầu hết là những bài thơ trữ tình,có một số ít là thơ tự sự khác với tiểu thuyết bằng thơ.Thơ ông miêu tả được nhập thần,phát huy đầy đủ đặc điểm “hàm ý vô cùng,phải xem ở ngoài lời”
	Tính hiện thực là đặc sắc chủ yếu trong thơ của ông,nhưng cũng có những bài lãng mạn hoặc sắc thái lãng mạn:Tốy bích mã,Mộng Lý Bạch,Mao ốc vi thu phong sở phá ca..
	Đặc sắc ngôn ngữ Đỗ Phủ là tinh xảo,công phu,thích đáng,mạnh mẽ.Đọc thơ ông ít khi ta thấy có cảm giác bằng phẳng,dễ dãi,mà trong âm điệu du dương ta thấy lời hay ý nhiều,không có nét bút nào thừa.
	Ông cũng là người nắm vững thanh vận trong thơ Trung Quốc.Ông sáng tạo được những hình tượng thi vị,hình ảnh trong thơ ông không những rõ ràng,sinh động mà lại hết sức mới lạ,độc đáo,có sức truyền cảm mãnh liệt.Ông tả tiếng gió trên sông hồ thì cuồn cuộn,dào dạt,tả tiếng khóc của bà già thì như có thể nghe thấy,tả núi sông,chim chốcha trái như hiện ra trước mắt.
IV.Những ảnh hưởng to lớn của thơ ca Đỗ Phủ
	Nhiều nhà thơ sau này lấy ông làm tấm gương để học tập.Thơ ông là nguồn cội nghiên cứu cho nhiều học giả.Trong lịch sử Trung Quốc chưa có một nhà thơ nào được học tập nhiều như ông.Ông có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ lịch sử phát triển thơ ca cổ điển của Trung Quốc từ đời Đường đến nay.
	Tinh thần sáng tác hiện tượng vì nhân dân của ông có tác dụng thúc đẩy sự phát triển tích cực của thơ ca đời Đường.

Tài liệu đính kèm:

  • docDo Phu tieu su va su nghiep.doc