Tài liệu dạy ôn tập 12

Tài liệu dạy ôn tập 12

 1. Vi hành ( Nguyễn Ái Quốc) : ĐH

 Tháng 6/1922 thực dân Pháp mở hội đấu xảo thuộc địa tại Mác xây. Chính phủ Pháp đưa vua Khải Định sang dự nhằm lừa gạt nhân dân Pháp: Vua An Nam hoàn toàn quy phục mẫu quốc sang đây tạ ơn, tình hình Đông Dương ổn định nên họ ủng hộ cuộc đầu tư lớn vào Đông dương. Trước sự kiện ấy, những người Việt Nam yêu nước tại Pháp đã lên tiếng phản đối. Nguyễn Ái Quốc là một trong những người yêu nước Việt Nam có nhiều bài báo, truyện ngắn đăng trên các báo như " Lời than vãn của Bà Trưng Trắc" "Những trò lố hay là Va ren và Phan Bội Châu", "Vi hành". Tác phẩm "Vi hành"được viết bằng tiếng Pháp đăng trên báo nhân đạo cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp số ra ngày 19/2/1923.

 Tác phẩm viết nhằm vạch mặt Khải Định, một kẻ ngu dốt, lố lăng, một tên bù nhìn vô dụng,đồng thời Nguyễn Ái Quốc cho nhân dân Pháp thấy rõ những thủ đoạn xảo trá của thực dân Pháp.

 2. "Tuyên Ngôn Độc lập"( Hồ Chí Minh)

 - 19/08/1945 Chính quyền về tay nhân dân ở Hà Nội, ngày 26/08/1945 Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về đến Hà Nội, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang Hà Nội, Người soạn thảo " Tuyên Ngôn Độc lập"- ngày 02/09/1945 Người thay mặt Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đọc bản "Tuyên Ngôn Độc lập" tại Quảng trường Ba Đình.

 - Hồ Chí Minh viết và đọc tuyên ngôn khi đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta. Dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc tiến vào từ phía bắc; quân đội Anh tiến vào từ phía nam; thực dân Pháp theo chân đồng minh, tuyên bố Đông Dương là đất “ bảo hộ” của Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, Đông Dương phải thuộc quyền của người Pháp. Tuyên Ngôn độc lập còn đập tan những luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mỹ, Anh, Pháp nhất là Pháp nhằm tái chiếm Đông Dương.

 - Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời tuyên bố với nhân dân Việt Nam, mà còn tuyên bố với nhân dân thế giới, phe đồng minh và cả kẻ thù của dân tộc về quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam

 

doc 14 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 1363Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu dạy ôn tập 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN HOÀN CẢNH RA ĐỜI
 1. Vi hành ( Nguyễn Ái Quốc) : ĐH
 Tháng 6/1922 thực dân Pháp mở hội đấu xảo thuộc địa tại Mác xây. Chính phủ Pháp đưa vua Khải Định sang dự nhằm lừa gạt nhân dân Pháp: Vua An Nam hoàn toàn quy phục mẫu quốc sang đây tạ ơn, tình hình Đông Dương ổn định nên họ ủng hộ cuộc đầu tư lớn vào Đông dương. Trước sự kiện ấy, những người Việt Nam yêu nước tại Pháp đã lên tiếng phản đối. Nguyễn Ái Quốc là một trong những người yêu nước Việt Nam có nhiều bài báo, truyện ngắn đăng trên các báo như " Lời than vãn của Bà Trưng Trắc" "Những trò lố hay là Va ren và Phan Bội Châu", "Vi hành". Tác phẩm "Vi hành"được viết bằng tiếng Pháp đăng trên báo nhân đạo cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp số ra ngày 19/2/1923.
 Tác phẩm viết nhằm vạch mặt Khải Định, một kẻ ngu dốt, lố lăng, một tên bù nhìn vô dụng,đồng thời Nguyễn Ái Quốc cho nhân dân Pháp thấy rõ những thủ đoạn xảo trá của thực dân Pháp.
 2. "Tuyên Ngôn Độc lập"( Hồ Chí Minh) 
 - 19/08/1945 Chính quyền về tay nhân dân ở Hà Nội, ngày 26/08/1945 Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về đến Hà Nội, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang Hà Nội, Người soạn thảo " Tuyên Ngôn Độc lập"- ngày 02/09/1945 Người thay mặt Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đọc bản "Tuyên Ngôn Độc lập" tại Quảng trường Ba Đình.
 - Hồ Chí Minh viết và đọc tuyên ngôn khi đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta. Dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc tiến vào từ phía bắc; quân đội Anh tiến vào từ phía nam; thực dân Pháp theo chân đồng minh, tuyên bố Đông Dương là đất “ bảo hộ” của Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, Đông Dương phải thuộc quyền của người Pháp. Tuyên Ngôn độc lập còn đập tan những luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mỹ, Anh, Pháp nhất là Pháp nhằm tái chiếm Đông Dương.
 - Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời tuyên bố với nhân dân Việt Nam, mà còn tuyên bố với nhân dân thế giới, phe đồng minh và cả kẻ thù của dân tộc về quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam
 3 " Tây Tiến" ( Quang Dũng) 
 - Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt-Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch ở thượng Lào cũng như miền Tây Bắc Bộ. Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng, từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa vòng về phía đông Thanh Hoá. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. tuy vậy chiến sĩ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Đoàn quân Tây Tiến sau thời gian hoạt động ở Lào trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52.
 - Quang Dũng là đại đội trưởng của đơn vị Tây Tiến năm 1947-> 1948 chuyển sang đơn vị khác. Xa đơn vị, nhớ đơn vị tác giả sáng tác bài "Tây Tiến" tại Phù Lưu Chanh. Bài thơ ban đầu có nhan đề " Nhớ Tây Tiến"
 4. "Đất Nước" ( Nguyễn Đình Thi): 
 Bài Đất nước là quá trình sáng tác từ 1948-> 1955
 Năm 1948 sáng tác hai khổ đầu lấy nhan đề " Sáng mát trong như sáng năm xưa"
 Năm 1949 sáng tác ba khổ thơ tiếp lấy nhan đề "Đêm mít tinh"
 Năm 1955 sáng tác phần cuối, sau đó, nhà thơ nhập hai phần đầu lại lấy nhan đề "Đất Nước". Tác phẩm là cảm hứng mùa thu Hà Nội, mùa thu Việt Bắc và suy ngẫm đất nước qua quá trình đấu tranh gian khổ nhưng rất hào hùng và cuối cùng đất nước ngời sáng.
 5. "Vợ chồng APhủ" (Tô Hoài): 
 -Vợ chồng APhủ in chung trong tập truyện Tây Bắc, kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Trong chuyến đi dài 8 tháng này, ông đã sống gắn bó và nghĩa tình với các đồng bào các dân tộc Thái, Mường, HmôngTập truyện Tây Bắc gồm 3 truyện " Cứu đất cứu mường", Mường Giơn", " Vợ chồng A Phủ". Tập truyện đã thể hiện một cách xúc động cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến thực dân. Trong cảnh đâu thương tột cùng đó, cách 
mạng đã đến với họ và họ đã thức tỉnh.
 -Truyện "Vợ chồng A Phủ" viết về chặng đường đời của Mị và A Phủ những ngày sống ở Hồng Ngài nhà Thống lí Pá Tra sang Phiềng Sa nên vợ nên chồng và đến với cách mạng. Tác phẩm đoạt giải nhất của Hội văn nghệ Việt Nam ( 1954-1955)
 6. "Vợ Nhặt" (Kim Lân): Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí" 
 Truyện tái hiện lại bức tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với con người trong nạn đói.
 7. "Tiếng hát con tàu" ( Chế Lan Viên) 
 - Tiếng hát con tàu được sáng tác 1960 và in trong tập "ánh sáng và phù sa". Đó là thời điểm miền Bắc tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, vừa bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
 - Tiếng hát con tàu là khát vọng lên đường đến những vùng đất xa xôi làm giàu cho tổ quốc. Đồng thời thể hiện tình cảm chân thành của nhà thơ đối với Tây Bắc.
 8. " Người lái đò sông Đà" ( Nguyễn Tuân)
 - Tác phẩm " Người lái đò sông Đà" được in trong tập tuỳ bút " sông Đà" của Nguyễn Tuân xuất bản năm 1960, tất cả gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
 - Đây là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của ông. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, đồng bào dân tộcThực tế cuộc sống mới ở vùng cao đã đem lại nguồn cảm hứng cho nhà văn sáng tạo.
 - Lần xuất bản đầu tiên, bài này có tên là Sông Đà, năm 1982 khi cho in trong bộ tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi tên bài thành “ Người lái đò Sông Đà”.
 9. "Việt Bắc" (Tố Hữu): - Việt Bắc quê hương cách mạng, nơi trung ương Đảng và chính phủ từng đóng quân ở đây. Vì vậy, mối tình giữa Việt Bắc và kháng chiến trở nên sâu nặng. 
 - Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết (7/1954). Miền Bắc nước ta được giải phóng. Tháng 10/1954 các cơ quan trung ương của Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính lịch sử này Tố Hữu đã sáng tác bài Việt Bắc.
 - Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm chia làm hai phần:
 - Phần đầu tái hiện giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của dân tộc và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành kỷ niện sâu nặng trong lòng người cán bộ kháng chiến
 - Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong viễn cảnh đất nước hòa bình và kếtthucs là lời ngợi ca công ơn của Bác, của Đảng đối với dân tộc. 
 10. "Rừng Xà Nu" ( Nguyễn Trung Thành)
 - Năm 1962, Nguyễn Trung Thành trở lại miền Nam vừa chiến đấu vừa sáng tác. Mùa hè năm 1965, khi đế quốc Mỹ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào miền Nam nước ta, chúng tiến hành những cuộc hành quân càn quét. Khắp miền Nam phong trào Đồng khởi nổ ra. Nguyễn Trung Thành đã sáng tác " Rừng Xà Nu" tác phẩm ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất của nhân dân Tây Nguyên chống đế quốc Mỹ. Tác phẩm in trong tập " Trên quê hương anh hùng Điện Ngọc" 
 11 "Sóng" ( Xuân Quỳnh) 
 - Trong đêm tháng 12/ 1967 khi ở lại biển Diên Điền Xuân Quỳnh đã sáng tác bài thơ " Sóng", bài thơ in trong tập thơ " Hoa dọc chiến hào" 
 - Bài thơ thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
 12. " Đất Nước" ( Nguyễn Khoa Điềm )
 - " Đất Nước" trích trong phần đầu chương V của trường ca " Mặt đường khát vọng". Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của 
đế quốc Mỹ, hướng về nhân dân, đất nước. ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh. 
 - Trương ca mặt đường khát vọng gồm 9 chương hoàn thành năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên in lần đầu năm 1974.
PHẦN TÁC GIA
 I/ Tác gia Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh
 1.Quan điểm sáng tác:
 - Sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ. Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Văn học nghệ thuật là một mặt trận, nhà văn là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
 - Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức văn học.Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người yêu cầu người cầm bút cần xác định "Viết cho ai"." Viết cái gì", " Viết để làm gì" và "Viết như thế nào". Người chú ý đến quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ. Các khía cạnh liên quan đến nhau trong ý thức và trách nhiệm của người cầm bút.
 - Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện tránh lối viết cầu kì xa lạ, nặng nề. Hình thức tác phẩm phải hấp dẫn, trong sáng, ngôn ngữ chọn lọc. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Theo Người, tác phẩm văn học phải thể hiện được tinh thần của dân tộc, của nhân dân và dược nhân dân yêu thích.
 2. Sự nghiệp văn chương:
 - Văn chính luận: 
 + Viết nhằm phục vụ trực tiếpcông cuộc đấu tranh cách mạng, tiến công trực diện kẻ thù, hoặc thể hiện những nhiệm vụ cách mạngcủa dân tộc qua những chặng đường lịch sử.
 + Tác phẩm tiêu biểu: Người cùng khổ, Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Di chúc
Truyện và ký: 
 + Truyện ngắn của Người hết sức cô đọng, cốt truyện sâu sắc, kết cấu độc đáo. Mỗi tác phẩm đều có kết cấu riêng hấp dẫn, ý tưởng thâm thuý kín đáo, giàu chất trí tuệ.
 + Tác phẩm tiêu biểu: Vi hành, những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Nhật ký chìm tàu
Thơ ca: 
 + Thơ ca là lĩnh vực nổi bật trong các giá trị văn chươngcủa Hồ Chí Minh. Người để lại trên 250 bài thơ.
 + Các tác phẩm trước và sau cách mạng tháng Tám,trong kháng chiến chống Pháp và sau này là sự thể hiện tình cảm cách mạng phong phú, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan và góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật của người.Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ "Nhật kí trong tù" gồm 133 bài, thơ Hồ Chí Minh( 1967) gồm 86 bài, thơ chữ Hán Hồ Chí Minh(1990) gồm 36 bài.
 3. Phong cách nghệ thuật:
 - Văn chính luận: Bộc lộ tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hoá, gắn lí luận với thực tiễn, giàu tính chiến đấu, vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện
 - Truyện và ký: Mở đầu và góp phần đặt nền móng đầu tiên cho văn xuôi cách mạng. Ngòi bút của Người trong truyện ngắn chủ động, sáng tạo,có khi là giọng điệu sắc sảo, châm biếm thâm thuý và tinh tế. Đặc sắc nhất của truyện ngắn là chất trí tuệ và tính hiện đại.
 - Thơ ca: Rất đa dạng phong phú, mang đặc điểm của thơ cổ phương Đông, uyên thâm, hàm súc. Vận dụng nhiều thể loại và phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
II/ Tác gia Tố Hữu:
 1/ Sự nghiệp sáng tác( con đường thơ): Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng, nên các chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn của cuộc đấu tranh ấy, đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ. 
 - "Từ ấy"( ... đến bờ con cá chỉ còn bộ xương, ông mệt lã. Nhưng trong cơn mơ ông vẫn mơ về con sư tử. 
 V/ Cuộc đời và sự nghiệp của Sôlôkhôp:
 1. Cuộc đời: (1905-1984)
 - Là nhà văn Nga lỗi lạc.
 - Sinh trong một gia đình nông dân, vùng thảo nguyên sông Đông.
 - Thủơ nhỏ học trường làng, có tới Mat-xcơ-va vài năm rồi về quê. Nội chiến bùng nổ, nghỉ học tham gia cách mạng, tự học say mê viết văn. Năm 1939 trở thành viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Năm 1965 nhận giải Nôben văn học với bộ tiểu thuyết"Sông Đông êm đềm". Cuộc đời Sôlôkhôp gắn bó với vùng sông Đông. Ông tham gia hầu hết các cuộc chiến tranh giải phóng.
 2. Sự nghiệp sáng tác:
 - Ông để lại cho nhân loại một khối lượng văn học đồ sộ. Ông có những trang viết hay về chiến tranh và người lính, đặc biệt là về vùng sông Đông.
 - Các tác phảm chính: Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, Số phận con người. Trong đó Sông Đông êm đềm là tác phẩm tiêu biểu nhất.
3. Tóm tắt tác phẩm: Tác phẩm gồm phần mở đầu, phần kết thúc và ba chương.
 Chương 1: là tiểu sử của Xôcôlôp từ những năm trai trẻ đến những năm chiến tranh vệ quốc bắt đầu. Những năm nội chiến, anh tham gia Hồng quân. Năm 1922 nạn đói cả nhà anh chết chỉ mình anh còn sống. Anh lấy vợ có ba con gia đình hạnh phúc.
 Chương 2: chiến tranh bùng nổ, Xôcôlôp từ giã vợ con ra mặt trận, anh bị phát xít bắt làm tù binh, thoát khỏi trại tù trở về với Hồng quân, được ít lâu nhận được tin vợ và con gái chết vì bom phát xít.
 Chương 3: một hy vọng sưởi ấm tâm hồn anh: anh nhận được thư của con trai nay là đại uý pháo binh. Nhưng thật nghiệt ngã, con trai anh đã hy sinh đúng ngày mồng 9 tháng 5 năm 1945, ngày chiến thắng phát xít.
Tóm tắt đoạn trích: Đoạn trích kể về số phận của Xôcôlôp ở ngoài quân ngũ. Anh không về quê vì tất cả người thân đã chết, anh tìm đến nhà một người bạn ở Uriupinxcơ. Công việc của Xôcôlôp là chở hàng hoá về huyện. Thường chạy xe xong anh trở về thành phố vào quán giải khát. Và anh đã gặp Vania ở đây. Bố và mẹ em đã chết trong chiến tranh phát xít. Trước cảnh ngộ của Vania, Xôcôlôp nhận em là con. Anh dồn hết tình thương chăm sóc cho Vania. Nhưng một lần Xôcôlôp lái xe bị chạm phải con bò anh bị tước bằng lái. Cuối cùng hai bố con rời Uriu –pin-xcơ đến một vùng quê khác. 
PHẦN TÓM TẮT VĂN HỌC VIỆT NAM
VÀ CHỦ ĐỀ
Câu 1. *Tóm tắt tác phẩm “ Vợ chồng A phủ”
 Truyện kể về cuộc đời của Mị và A Phủ, hai con người cùng khổ vùng núi cao Tây Bắc. Mị một cô gái Mông bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Từ khi bị bắt làm dâu gạt nợ, suốt mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc. Mị về nhà chào cha để đi chết nhưng thấy bố van khóc Mị đã không đành lòng. Mị trở lại nhà thống lí Pá Tra. Từ đó, Mị sống trong câm lặng như con rùa nuôi ở xó cửa. Khi mùa xuân đến, tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức sự sống trong Mị. Mị lén uống rượu, quấn lại tóc, với lấy chiếc váy hoa trên vách chuẩn bị đi chơi xuân nhưng bị A Sử bắt trói vào cột nhà mãi đến khi hắn bị A Phủ đánh, Mị mới được cởi trói vào rừng hái thuốc. A Phủ một chàng trai khỏe mạnh, mồ côi. Vì đánh A Sử con quan, A Phủ bị bắt ở trừ nợ. Khi bị mất một con bò, A Phủ bị trói chờ chết. Một đêm mùa đông, khi thức dậy sưởi lửa, Mị nhìn thấy A phủ khóc, Mị cảm thương cho A Phủ, nghĩ đến số phận mình, cô cắt dây trói cho A Phủ. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa. Hai người kết làm vợ chồng và tham gia du kích kháng chiến. 
* Chủ đề: Vợ chồng A phủ đặt ra vấn đề số phận con người- những con người dưới đáy xã hội- những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề về số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, dưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
Câu 2. * Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt
Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, kể về nhân vật chính có tên là Tràng, một chàng trai xấu xí nghèo khổ, làm nghề đẩy xe thóc thuê. Giữa lúc nạ đói tràn đến xóm ngụ cư của hắn, Tràng đưa vợ về nhà, người vợ hắn “nhặt” được sau vài ba bận nói đùa và bốn bát bánh đúc. Bà cụ Tứ , người mẹ giàu tình thương người, xót cho cảnh ngộ người đàn bà, vừa mừng vừa tủi, bà chấp nhận nàng dâu mới. Cái liều lĩnh của Tràng đã biến thành hạnh phúc, những con người nghèo khổ ấy cùng nương tựa vào nhau và cùng hi vọng vào tương lai. Tác phẩm kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ, niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
* Chủ đề: Những con người bần cùng, lương thiện, trong cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra, đã cưu mang đùm bọc lấy nhau và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn mà cách mạng đem đến.
Câu 3: *Tóm tắt tác phẩm “Rừng xà nu”
Tác phẩm kể về Tnú và buôn làng Xôman trong không gian của những cánh rừng xà nu bạt ngàn chạt tít đến chân trời. Tnú sau ba năm đi lực lượng trở về thăm làng. Đêm hôm đó, tại nhà ưng, Cụ Mết đã kể cho dân làng nghe cuộc đời của Tnú. Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng nuôi dưỡng, được anh Quyết giác ngộ. Tnú làm liên lạc cho anh Quyết. Khi đi liên lạc Tnú thông minh, gan dạ. Anh Quyết hy sinh, Tnú vượt ngục về lãnh đạo dân làng. Thằng Dục ác ôn nhiều lần tìm bắt Tnú nhưng không được, hăn bắt vợ con anh tra tấn dã man. Tnú không chịu được, anh nhảy ra giữa bọn ác ôn và bị bắt, bị chúng đốt 10 đầu ngón tay. Dân làng vùng dậy cứu anh nhưng vợ và con Tnú đã chết. Sau khi được dân làng cứu mặc dù bị thương nhưng anh vẫn tham gia quân giải phóng. Đoạn kết Tnú chia tay cụ Mết và Dít ra đi chiến đấu. Những đồi xà nu vẫn chạy nối tiếp đến chân trời.
* Chủ đề: Rừng xà nu là cau chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của một con người, cũng như của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhận ra đó là: Chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp bạo lực phản cách mạng.
Câu 4: * Tóm tắt tác phẩm “ Những đứa con trong gia đình”
Câu chuyện kể về một gia đình Nam Bộ yêu nước, giàu truyền thống cách mạng thông qua những dòng hồi ức của nhân vật chính là Việt. Trong trận chiến đấu ở rừng cao su Việt tiêu diệt được một xe tăng bọc thép nhưng bị thương nặng, hai mắt không nhìn thấy gì. Nhữnglúc tỉnh dậy âm thanh xung quanh làm Việt hồi tưởng về những người thân trong gia đình. Việt nhớ đến những lúc ở nhà vẫn hay tranh giành phần hơn với chị chiến. Việt nhớ đến má cái lần má dắt theo Việt đi đòi đầu cha. Việt nhớ đến chú năm, người giữ quyển sổ ghi công gia đình và tội ác của giặc. Việt nhớ đến chị chiến trong cái đêm cuối cùng ở nhà trước khi nhập ngũ. Khi đồng đội tìm thấy Việt thì thâqý Việt ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, đạn đã lên nòng, một ngón tay của Việt đã đặt sẵn vào cò súng, Việt được đưa về điều trị. 
* Chủ đề: Qua hồi ức của Việt khi bị thương về những thành viên trong gia đình, tác giả ca ngợi tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của một gia đình cũng là của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. 
Câu 5: * Tóm tắt tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”- Nguyễn Minh Châu
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng anh đã từng tham gia chiến tranh chống Mỹ, được trưởng phòng cử xuống vùng biển để chụp ảnh biển buổi sáng . Anh đã chụp được cảnh “đắt” trời cho. Nhưng ngay lúc ấy, Phùng phát hiện ra một bức tranh khác của cuộc sống. Một người chồng đã đánh đập vợ một cách dã man và đưa con vì bênh vực cho mẹ đã lao vào đánh bố. Oái ăm thay, sự thật nghiệt ngã đó lại xuất phát từ chiếc thuyền mà chỉ vài phút trước đây, là bức ảnh trong mơ của anh. Anh kể câu chuyện với Đẩu, bạn anh, chánh án tòa án huyện. Hai người đồng ý cách giải quyết của Đẩu: khuyên li hôn. Nhưng tại tòa án huyện, khi lắng nghe lời cầu xin không bỏ chồng và lời tâm sự của người đàn bà, anh và bạn anh hiểu rằng, không phải bất cứ chuyện gì cũng có thể giải quyết bằng luật pháp. Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông đánh vợ, Phùng xuống chỗ thuyền gặp Phác. Sau đó, anh trở về phòng văn hóa, suy nghĩ về bức ảnh chụp in trong lốc lịch.
* Chủ đề: Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tấm lòng tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời, người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.
Câu 6: Tóm tắt “Hồn Trương ba, da hàng thịt”- Lưu Quang Vũ:
 Ông Trương Ba là người làm vườn khoảng hơn 50 tuổi, chất phác, cần cù, đánh cờ rất giỏi, yêu vợ thương con cháu. Do thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu, Trương Ba bị chết bất ngờ. Vì thương quý Trương Ba đã từng chơi cờ với mình nên Đế Thích đã cho hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt vừa chết một ngày để được sống lại. Thế là hồn Trương Ba được giữ nguyên vẹn nhưng phải trú ngụ ở thân xác anh hàng thịt. Điều trớ trêu, bất hạnh cũng bắt đầu xảy ra. Hồn Trương Ba không thể sống chung với vợ anh hàng thịt. Về nhà mình hồn Trương Ba cũng không được vợ, con, cháu, bạn bè quý mến, yêu thương vì thân xác thô kệch, tính cách thô thiển của anh hàng thịt. Trương Ba đau khổ. Cuối cùng Trương Ba quyết định xin Đế Thích cho anh hàng thịt và cu Tị sống lại, mình thì chết hẳn không nhập vào xác ai nữa.
 * Chủ đề: Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng định: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn còn quý giá hơn. Con người phải luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lạ sự tầm thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách.
Câu 7: Chủ đề “ Tuyên ngôn Độc lập”: Là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, một áng văn nghị luận bất hủ: Tuyên bố xóa bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm, chấm dứt hơn 80 năm cai trị của thực dân pháp ở nước ta và mở ra kỷ nguyên độc lập tự do của dân tộc.
Câu 8: Nguyễn Đình Chiểu , ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc
Qua bài viết, Phạm Văn Đồng khẳng định: Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuộc dời của một người chiến sĩ đã phấn đấu hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự nghiệp thơ văn của ông là một minh chứng hùng hồn cho địa vị và tác dụng to lớn của văn học nghệ thuật cũng như trách nhiệm của người cầm bút trước cuộc đời. Cuộc đời và văn nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là bài học cho hôm nay mà cả cho mai sau.
Câu 9: Chủ đề “Thông điệp ngày thế giới phòng chống AIDS”: Khẳng định việc phòng chống AIDS phải là mối quan tâm hàng đầu của nhân loại, và những cố gắng của chúng ta còn quá ít. Tác giả tha thiết kêu gọi hãy coi việc chống đại dịch này là cuộc chiến, mọi người phải đối mặt với sự thật, không vội vàng phán xét đồng loại và chung tay “ đánh đổ các thành lũy của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này.”
Câu 10: Đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam 1945-1975
- Văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước, phục vụ cách mạng cổ vũ chiến đấu.
- Văn học hướng về đại chúng, tìm đến những hình thức nghệ thật quen thuộc với quần chúng nhân dân
- Văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạng.
----------------------------Hết------------------------------------------

Tài liệu đính kèm:

  • docOn Tap Van 12.doc