BI KỊCH CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO
Đoàn Nguyễn Quỳnh Trâm – 10C1
I/ Mở đầu:
Ca dao là tiếng đàn muôn điệu của tâm hồn người bình dân. Bên cạnh những giai điệu tươi vui và rộn ràng, ta còn nghe vọng không ít những khúc nhạc buồn thương ai oán. Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh, những cảnh đời trắc trở, éo le. Nổi bật hơn cả là tiếng than của người phụ nữ. Bao nhiêu tâm sự, sầu đau, phiền muộn không thể tỏ bày cùng ai, phụ nữ gửi trọn vào những câu hát than thân. Có lẽ vì vậy, ca dao than thân đã khắc họa một cách chân thực và đậm nét bi kịch của những thân phận đàn bà trong xã hội ngày xưa. Đến với ca dao, ta bắt gặp vô vàn những nỗi đau của người phụ nữ, trong đó có lẽ bi kịch thân phận, bi kịch lỡ duyên và bi kịch hôn nhân là những nỗi đau nhức nhối và dai dẳng nhất.
BI KỊCH CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO Đoàn Nguyễn Quỳnh Trâm – 10C1 I/ Mở đầu: Ca dao là tiếng đàn muôn điệu của tâm hồn người bình dân. Bên cạnh những giai điệu tươi vui và rộn ràng, ta còn nghe vọng không ít những khúc nhạc buồn thương ai oán. Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh, những cảnh đời trắc trở, éo le. Nổi bật hơn cả là tiếng than của người phụ nữ. Bao nhiêu tâm sự, sầu đau, phiền muộn không thể tỏ bày cùng ai, phụ nữ gửi trọn vào những câu hát than thân. Có lẽ vì vậy, ca dao than thân đã khắc họa một cách chân thực và đậm nét bi kịch của những thân phận đàn bà trong xã hội ngày xưa. Đến với ca dao, ta bắt gặp vô vàn những nỗi đau của người phụ nữ, trong đó có lẽ bi kịch thân phận, bi kịch lỡ duyên và bi kịch hôn nhân là những nỗi đau nhức nhối và dai dẳng nhất. II/ Nội dung: 1. Bi kịch thân phận: Trong xã hội phong kiến, dưới cái bóng của chế độ nam quyền, người phụ nữ luôn bị coi thường. Đàn bà, con gái chỉ đảm nhận vai trò của một người mẹ, người vợ, suốt ngày quẩn quanh nơi xó bếp, đồng ruộng với công việc nội trợ, đồng áng. Thế nhưng, người phụ nữ ý thức rất rõ giá trị thực sự của mình, giá trị tiềm tàng nằm ẩn trong vẻ đẹp hình thể lẫn vẻ đẹp tâm hồn. Những hình ảnh ví von “tấm lụa đào”, “giếng giữa đàng”, “củ ấu gai” mà ta hay bắt gặp trong ca dao chính là biểu tượng cho những vẻ đẹp ấy. Họ mềm mại, tươi mát, quý giá, sáng trong như những viên ngọc quý của cuộc đời. Lẽ ra những con người như thế phải được xã hội đề cao, nâng niu và trân trọng. Thế nhưng, không biết bao nhiêu cô gái đã phải khóc trong ai oán : “Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.” hay “Thân em như giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”. hay “Thân em như cột đình chung Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi.” Vừa tự hào với đời, người phụ nữ lại ngay lập tức phải trở về với thực tại, nơi mà những giá trị chân, thiện, mĩ của họ chỉ còn là ảo ảnh, hư không. Công thức ngôn từ “thân em như” gợi cảm giác yếu đuối, mong manh. Người phụ nữ bị đặt lên bàn cân của người sở hữu và được đánh giá, xem xét dựa trên giá trị sử dụng như những món hàng, vật dụng tầm thường khác. Cuộc đời bị đẩy đưa một cách vô định ngoài tầm tay với của họ. Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau không làm chủ được số phận của mình ? Bất an, vô định, người phụ nữ gửi trọn những đau đớn ấy vào câu ca tiếng hát làm thành chất bi có tính đặc trưng trong nội dung của ca dao than thân. 2. Bi kịch lỡ duyên a) Nỗi đau bị phụ tình: Không chỉ trong quan hệ xã hội người phụ nữ mới bị xem thường mà ngay trong tình yêu, hôn nhân, vị trí và giá trị của họ cũng không được đề cao. Người con gái luôn tự xem mình là “bến nước”, “cây đa” kiên định đợi chờ, thủy chung, son sắt. Cũng chính vì thế, phụ nữ dễ rơi vào cảnh bị phụ bạc, bị bỏ rơi và phụ nữ luôn là người gánh chịu mọi khổ đau khi tình yêu, hôn nhân tan vỡ. Có thể nói, ca dao đã thể hiện một cách chân thực và sâu sắc những bi kịch lỡ duyên của người phụ nữ. Người con trai vốn tính đa tình, thích “trêu hoa ghẹo nguyệt” nên chuyện: “Có mới thì nới cũ ra, Mới để trong nhà, cũ để ngoài sân” cũng là điều khó tránh khỏi. Khi những cuộc tình “đứt gánh giữa đường”, dòng nước mắt đầy xót xa của những kiếp đàn bà dang dở cứ nối tiếp nhau chảy mãi trong ca dao. Những giọt nước mắt ấy nhỏ xuống tận sâu tâm hồn họ và lắng lại trong ca dao những dòng xúc cảm trào dâng, mãnh liệt như tiếng vỡ òa trong đau đớn : “Ngày nào anh bủng anh beo Tay cất chén thuốc tay đèo múi chanh Bây giờ anh khỏi anh lành Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi.” hay “Từ ngày tôi ở với anh Cha mẹ đánh mắng anh tình phụ tôi Có thịt anh tình phụ xôi Có cam phụ quýt, có người phụ ta Có quán tình phụ cây đa Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn.” hay “Anh nói với em như rìu chém xuống đá Như rạ chém xuống đất, Như mật rót vào tai Bây giờ anh đã nghe ai Bỏ em ở chốn non đoài bơ vơ.” Nhưng lạ thay, dù bị phản bội, dù là người chịu thiệt thòi trong tình yêu, người phụ nữ vẫn không hề tỏ ra tuyệt tình, căm phẫn.. Rõ ràng là “tôi”-“anh” mà ta nghe vẫn như tiếng gọi “thiếp”- “chàng” thiết tha, da diết. Rõ ràng lớp vỏ ngôn từ là “phụ tình”,”bạc tình”, “trách” mà ta vẫn có cảm giác người con gái đang cố gắng trong bất lực để níu kéo chàng trai, vẫn thấy cái tình quyến luyến, nồng thắm trong lòng họ đang cháy âm ỉ cháy trong hi vọng mong manh. Ca dao với thể thơ lục bát giàu nhạc điệu và những đặc trưng rất riêng về mặt ngôn từ không những cho thấy nỗi đau mà còn toát lên được vẻ đẹp tâm hồn, lòng vị tha và sự chung tình của phụ nữ xưa. b) Nỗi đau tình duyên bị ngăn cấm Có thể nói, chính những quan niệm xã hội khắt khe, vốn đã giam cầm người phụ nữ trong vách ngăn của nỗi mặc cảm thân phận, bây giờ lại một lần nữa đẩy tình yêu của họ đến chỗ tan vỡ không thành. Phải chăng những quan niệm cổ hủ, lạc hậu, phi lí mới thực sự là vật cản bước chân người phụ nữ trên hành trình kiếm tìm và góp nhặt hạnh phúc? Lại một lần khát khao mà không thể có được hạnh phúc nghĩa là thêm một bi kịch nữa xuất hiện trong cuộc đời người phụ nữ ngày xưa. Vì vậy, trong ca dao, ta bắt gặp không ít những cuộc tình đổ vỡ bởi những lề thói khắc khe của chế độ phong kiến. “Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi Biết rằng có được ở đời với nhau Hay là vào trước ra sau Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng.” hay: “Lửa nhen mới bén duyên trầm Trách sao cha mẹ nỡ cầm duyên con.” hay: “Chanh chua quít ngọt đã từng Còn cây khế chín trên rừng chưa ăn Hay là thầy mẹ cấm ngăn Không cho đôi lứa đắp chăn cùng giường.” Mấy ai thấu hiểu được nỗi đau của những thân gái bị cha mẹ ép duyên, phải vùi lấp cả tuổi xuân trong những cuộc hôn nhân được sắp đặt trước : “Mẹ em tham thúng xôi rền Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng. Em đã bảo mẹ rằng đừng Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào Bây giờ chồng thấp vợ cao Như đôi đũa lệch so sao cho bằng .” Dẫu rằng những nỗi đau ấy không chua chát, đắng cay bằng nỗi đau bị phụ tình nhưng nó cũng đã đẩy người phụ nữ lùi xa thêm một bước nữa trên con đường đến với hạnh phúc. 3. Bi kịch hôn nhân: Cuộc đời phụ nữ đâu chỉ phải gánh chịu những bất hạnh trong tình yêu, khi đã tìm được bến đỗ của cuộc đời, cứ ngỡ rằng họ sẽ hạnh phúc, thế nhưng họ cũng phải đối mặt với vô vàn những trái ngang, nghịch cảnh. Nổi bật lên trong ca dao xưa là nỗi đau của những thân gái phải chịu kiếp “chồng chung” . Nỗi đau của những người vợ cả có lẽ không được đề cập một cách rõ nét trong ca dao, bởi ít nhất họ cũng có danh phận. Nhưng trong niềm cảm thương cho những kiếp chồng chung, thấp thoáng đâu đó ta bắt gặp những nạn nhân của thói “có mới nới cũ”. Người đời thường nói: đàn ông yêu bằng mắt. Bởi vậy, những người vợ cả thường là những kẻ yếu thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chốn tình trường. Nhưng xét cho cùng, sự phai tàn xuân sắc của họ là kết quả của những tháng năm dài hi sinh vì chồng, vì con. Ấy vậy mà đáp lại mong ước giản dị của họ là sự phụ bạc phũ phàng của những ông chồng gió trăng: “Có lá lốt tình phụ xương sông Có chùa bên Bắc, bỏ miếu bên Ðông tồi tàn.” hay “Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ Con thơ tay ẵm tay bồng Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.” Bước ra từ những đổ vỡ ấy, những người vợ chợt nhận ra niềm vui gia đình, hạnh phúc hôn nhân mà trước đây cuộc đời đã hào phóng ban tặng cho họ thực chất chỉ là ảo tưởng xa vời. Họ lại trở về là chính họ, những con người chưa từng mảy may chạm tới được thiên đường hạnh phúc ! Nhưng đau đớn hơn cả những người vợ cả là kiếp làm lẽ. Nào ai hiểu hết những nỗi niềm không thể tỏ bày, họ chỉ biết mượn ca dao để giải tỏa những phiền muộn chất chứa trong lòng : “Thân em làm lẽ chẳng nề Đâu như chánh thất mà lê lên lên giường Tối tối chị giữ mất chồng Cho một manh chiếu nằm suông chuồng bò và còn : “Thân em làm lẽ vô duyên Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời Ai ơi ở vậy cho rồi Còn hơn làm lẽ, chồng người khổ ta.” Nếu như những bi kịch thân phận hay bi kịch bị phụ tình là những bi kịch rất dễ nhận thấy ở người phụ nữ, họ dễ được cảm thông chia sẻ thì bi kịch làm lẽ có lẽ chỉ họ mới thấu hết ! Không có hạnh phúc, mất đi hạnh phúc liệu có đau hơn phải xé lẻ hạnh phúc, nhất là trong hôn nhân, nơi mà mỗi con người đều mong muốn được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tuyệt đối ? Đọc ca dao, ta mới vỡ lẽ ra rằng cái “kiếp chồng chung”, “chồng người” lại đắng cay và khổ đau hơn bội phần cái kiếp không chồng. Ngoài những bi kịch trên, trong ca dao, ta còn bắt gặp những bi kịch khác của người phụ nữ. Đó là những cảnh đời cô đơn chiếc bóng : “Chòng chành như nón không quai Như thuyền không lái, như gái không chồng.” Hay rỉ mòn trong kiếp goá bụa: “Gió đưa cây trúc ngã quỳ Ba năm chực tiết còn gì là xuân.” Đó là những nạn nhân của tục tảo hôn : “Bữa cơm múc nước rửa râu Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm Đêm đêm dắt cụ đi nằm Than thân phận gái ôm lưng lão già Ông ơi ông buông tôi ra Kẻo người ta thấy, người ta chê cười.” III/ Kết luận: Ca dao đã cho thấy cái tài của người bình dân trong việc thể hiện cái bi. Sự khéo léo ở đây là nét buồn không lộ ra trên câu chữ mà vẫn khiến cho bao trái tim người đọc phải xót xa, thương cảm. Những mảnh đời phụ nữ xưa từ khắp các nẻo đường đời đều về trong ca dao với một tiếng than chung: bất hạnh. Nhưng, qua ca dao, ta không chỉ thấy được những khoảng tối trong cuộc đời của phận đàn bà mà dường như còn thấy được tiếng nói phản kháng, đấu tranh của nhân dân được cất lên bằng một niềm tin, niềm hi vọng về một tương lai hạnh phúc.
Tài liệu đính kèm: