Phân tích: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam

Phân tích: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam

Phần 1

Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn Việt Nam, giáo trình Văn học dân gian nhận định:“ Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng , là thi liệu , văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc ( Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Hồ Chí Minh, .) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú” . Đó là một nhận định xác đáng thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa văn học dân gian và văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của văn học dân tộc Việt Nam từ thời trung đại sang thời hiện đại.

 

doc 8 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 11631Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam
(Sưu tầm)
Phần 1
Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn Việt Nam, giáo trình Văn học dân gian nhận định:“ Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng , là thi liệu , văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc ( Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Hồ Chí Minh,.) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú” . Đó là một nhận định xác đáng thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa văn học dân gian và văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của văn học dân tộc Việt Nam từ thời trung đại sang thời hiện đại.
1- Nhiều thể loại, thể thơ của văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại, thể thơ của văn học dân gian:
a- Về văn xuôi: Truyện cổ dân gian Việt Nam với nhiều thể loại phong phú, đặc biệt là thần thoại , truyền thuyết , cổ tích đã trở thành đề tài cho những tác phẩm văn xuôi chữ Hán sớm nhất của nước ta. Các tác giả Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Tang thương ngẫu lục,đã ghi chép lại truyện dân gian và trên cơ sở đó đã hư cấu lại hoặc ít hoặc nhiều. Như vậy chính các thể loại truyện cổ dân gian đã tạo nên thể loại “ truyền kì”, “ chí quái” trong văn học viết trung đại.
b- Về văn vần nói chung:
Tác phẩm diễn ca lịch sử dài nhất nước ta Thiên Nam ngữ lục ( khuyết danh) cũng đã sử dụng thể thơ lục bát của dân gian và dựa trên hệ thống truyện kể dân gian để dựng nên những bức tranh lịch sử hoành tráng và bi tráng của thời dựng nước và thời Bắc thuộc. Những đoạn viết về Phù Đổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng đến nay vẫn nguyên sức hấp dẫn:
“ Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định , dẹp yên biên thành
Đô kì đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục , hai là bá vương ”.
Khi thể thơ lục bát và song thất lục bát do nhân dân ta sáng tạo ra được các nhà thơ dân tộc tài năng sử dụng để viết nên những truyện thơ, những khúc ngâm bằng tiếng nói dân tộc thì văn học Việt Nam bước vào thời kì hoàng kim bậc nhất trong văn học trung đại ( nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX). Truyện Kiều; Truyện Hoa tiên. Lục Vân Tiên; Chinh phụ ngâm (Bản dịch), Cung oán ngâm khúc là những minh chứng hùng hồn cho khả năng biểu hiện kì diệu của các thể thơ dân tộc vốn chỉ được dùng để viết những câu ca tương đối ngắn của dân gian.
Từ thời kì Thơ Mới ( 1932-1945) trở đi, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật hầu như ngày càng vắng mặt trong các sáng tác mới nhưng chính thể thơ lục bát dân tộc tiếp tục được các nhà thơ Mới và các nhà thơ sau Cách mạng tháng Tám sử dụng để viết nên những bài thơ có sức sống lâu bền: Ngậm ngùi (Huy Cận); Tương tư, Chân quê ( Nguyễn Bính); Việt Bắc; Nước non nghìn dặm ( Tố Hữu); Tre Việt Nam ( Nguyễn Duy), Bờ sông vẫn gió (Trúc Thông) Lời thề cỏ may ( Phạm Công Trứ),.
Hát nói vốn là một lối hát ả đào phát triển từ lâu trong sinh hoạt ca hát, đến cuối thế kỉ XVIII, nhất là đầu thế kỉ XIX, cách tổ chức ca từ của nó (thể thơ hát nói) được hai nhà thơ tài năng nâng lên một tầm cao mới làm cho nó có tư cách của một thể thơ dân tộc tự do nhất, phóng túng nhất, linh hoạt nhất. Hai nhà thơ đó là Nguyễn Công Trứ ( 1778 – 1858) và Cao Bá Quát (1808-1855). Không có ca từ hát nói chắc hẳn không có những bài thơ hát nói tuyệt vời tài hoa của hai thi bá. Song không có hai thi bá thì thể thơ này chưa chắc có chiếu ngồi sang trọng như thế trong tao đàn thơ Việt. Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh tiếp tục sử dụng thể thơ này để viết những thi phẩm nổi tiếng. Bước sang đầu thế kỉ XX, trong bước chuyển mình vĩ đại của nền thơ ca tiếng Việt, Phan Bội Châu, Tản Đà, Võ Liêm Sơn vẫn có những bài hát nói được truyền tụng rộng rãi. Đặc biệt là Phan Bội Châu, nhà đại chí sĩ của dân tộc Việt Nam suốt hai mươi năm đầu thế kỉ đã dùng thể hát nói để chuyển tải những tâm sự mang chất bi hùng , những lời kêu gọi cách mạng mạnh mẽ, thống thiết, hừng hực khí thế chiến đấu. Đúng là những “câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu) có sức sống lâu bền trong tâm hồn các thế hệ thanh niên Việt Nam:
“Đời đã mới, người càng nên đổi mới,
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội”
“Xúm vai vào xốc vác cựu giang san”
Đi cho êm, đứng cho vững , trụ cho gan
Dây doàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
“Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần,
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn”
“Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ!”
Thể nói lối, thể vè trong văn học dân gian cũng được Nguyễn Khuyến vận dụng để viết bài “ Văn tế Cơriviê ” châm biếm , đả kích tên sĩ quan Pháp bị nhân dân Bắc Kì tiêu diệt khi giặc Pháp đánh lấn ra các tỉnh miền Bắc nuớc ta (thập niên 70, 80 thế kỉ XIX)
Cũng thể thơ này, các nhà thơ hiện đại đã dùng để viết nên những bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình trong kháng chiến chống pháp như Lượm ( Tố Hữu); Thăm lúa ( Trần Hữu Thung),
Trong tư cách một thể thơ dân gian, thể ca dao -theo NguyễnĐình Chú- được Dương Khuê (1839-1902) sử dụng để viết nên bài:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái , mặt gương Tâp Hồ
Các nhà thơ thế kỉ XX sử dụng để viết những bài ca dao mới. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết hàng loạt bài phong dao, Á Nam Trần Tuấn Khải đã đóng góp vào kho tàng ca dao dân tộc nhiều bài ca dao mới mà nổi tiếng nhất là bài:
“ Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau.
Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Thanh Tịnh, Bảo Định Giang, Ngô Văn Phú cũng đã có vinh dự tương tự.
Phần2
 Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng, từ ngữ do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng , là thi liệu , văn liệu của văn học viết xuyên suốt thời trung đại và hiện đại
Không một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hoá lớn nào của nước ta không khẳng định, tôn vinh giá trị bất hủ của văn học dân gian. Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du từng xác nhận “ Thôn ca sơ học ma tang ngữ” (Từ nhỏ học lời người trồng dâu, trồng đay qua những bài hát nơi thôn xóm). Hồ Chí Minh khẳng định văn học dân gian “ là những hòn ngọc quý”.
Không chỉ tồn tại trong ý thức, những nhà thơ trung đại và hiện đại đã vận dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ và nghệ thuật ưu tú của văn học dân gian vào sáng tác của mình.
a- Trong một thời kì lịch sử khá dài, chữ Hán được coi là một thứ chữ có tính quan phương, “ chính thức” thì việc học tập, vận dụng ca dao tục ngữ, thành ngữ dân gian vào các sáng tác đặc biệt là các sáng tác bằng tiếng nói dân tộc không chỉ có giá trị về phương diện nghệ thuật ngôn từ mà còn là một hành vi văn hoá thể hiện sâu sắc lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Nhà thơ dân tộc lớn đầu tiên của nước ta, Nguyễn Trãi, đã nêu một tấm gương sáng. Bên cạnh tập thơ chữ Hán ( Ức Trai thi tập) , ông đã để lại cho đời một tập thơ nôm bề thế là Quốc âm thi tập. Trong tập thơ quý này, chúng ta thấy thi hào đã vận dụng thuần thục lời ăn tiếng nói dân gian, từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao- dân ca, đến các hình ảnh hình tượng trong văn học dân gian..
Ca dao có câu: “ Số giàu đem đến dửng dưng
 Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu”. 
Trong tập thơ trên , Nguyễn Trãi cũng có những câu: : 
Sang cùng khó bỡi chưng trời
Lăn lóc làm chi cho nhọc hơi
Đựợc thua , phú quý dầu thiên mệnh
Chen chóc làm cho cho nhọc nhằn.
Ca dao có câu: 	 Còn duyên như tượng tô vàng
 Hết duyên như ổ ong tàn gặp mưa
 	Và “ Còn duyên đóng cửa kén chồng
 	 Hết duyên cất quán ngồi trông bộ hành
Trong Quốc âm thi tập có câu: “La ỷ dập dìu hàng chợ họp
 Cửa nhà bịn rịn tổ ong tàn”
Ca dao có câu: 	“ Thật vàng chẳng phải thau đâu
 Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”
Quốc âm thi tập có câu : 	Ngọc lành nào có tơ vết
 Vàng thật âu chi lửa thiêu”
Trong nhiều bài thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng khá nhiều tục ngữ, thành ngữ.
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu tốt đều thì lắp khuôn
Lân cận nhà giàu , no bữa cốm 
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn
Chơi cùng đứa dại nên bầy dại
Kết với người khôn học nết khôn
Ở đằng thấp thì nên đằng thấp
Đen gần mực , đỏ gần son.
Đọc bài thơ này chúng ta dễ dàng nhận thấy Nguyễn Trãi đã vận dụng sáng tạo nhiều tục ngữ: 
- Ở bầu thì tròn , ở ống thì dài
- Ở gần nhà giàu đau răng ăn cốm 
- Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn
- Gần mực thì đen gần đèn thì sáng
Chính vì thế , những kinh nghiệm được Nguyễn Trãi nêu ra trong bài thơ rất gần gũi với dân gian, dễ được nhân dân tiếp nhận và qua đó phản ánh cốt cách thân dân của nhà yêu nước vĩ đại xứng danh “ Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền” này.
 b- Trong số những nhà thơ lớn của thời kì toàn thịnh của văn học chữ Nôm (nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX) , Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương đã sử dụng rất sáng tạo ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật văn học dân gian và ngược lại nhân dân cũng mượn nhiều câu trong Truyện Kiều kiệt tác của Nguyễn Du và trong thơ Hồ Xuân Hương, hoặc để nguyên hoặc sửa đi ít nhiều, để đối đáp , gửi gắm tâm sự của mình:
 Thương nhớ người xa vắng, ca dao có câu: “ Ai đi muôn dặm non sông/ Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy” .Nói về tâm sự kẻ ở người đi, nỗi chia li ray rứt, ca dao có câu: “ Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng”, Truyện Kiều cũng có những câu: “ Sầu đông càng lắc càng đầy / Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” và “ Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiến nửa soi dặm trường”,..Khảo sát hệ thống từ ngữ Truyện Kiều và Văn chiêu hồn chúng ta thấy Nguyễn Du đã học tập vận dụng rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ dân gian.Mặt khác Nguyễn Du học tập cách tổ chức ngôn ngữ trong thành ngữ và tục ngữ để tạo ra những kết cấu ngôn ngữ như những thành ngữ , tục ngữ. Có những trường hợp thật khó phân biệt đâu là thành ngữ , tục ngữ Nguyễn Du học của quần chúng, đâu là đơn vị từ ngữ do Nguyễn Du tạo ra:
- Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
- Bề ngoài thơn thớt nói cười 
Mà trong nham hiểm giết người không dao
- Ở đây tai vách mạch dừng
Gặp ai người cũ cũng đừng nhìn chi
 Nhiều trường hợp nhà thơ tách thành ngữ, tục ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố phụ hoặc để nhấn mạnh ý nghĩa của thành ngữ , tục ngữ hoặc để làm cho nó phù hợp với vần điệu câu thơ. Những thành ngữ “ trong ấm ngoài êm”, ‘ tình sông nghĩa bể”, “ khổ tận cam lai’ , ‘ đau như giần”, “ ai khảo mà xưng”, “ rút dây dộng rừng” đựoc dùng như thế trong những câu thơ:
- Nàng rằng non nước xa khơi
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
- Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông
- Tẻ vui bởi tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai
- Những là e ấp dùng dằng
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
 Đặc biệt, Truyện Kiều có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao dân ca nhưng trong hơi hướng ai cũng nhận ra ảnh hưởng của chúng. Chính trường hợp này mới là sự đồng hoá cao nhất, là biểu hiện việc hoác tập ca dao dân ca một cách nhuần nhuyễn của nhà thơ :
“ Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Duyên em dù nối chỉ hồng 
May ra khi đã tay bồng tay mang
Tấc lòng cố quốc tha hương
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời
Ca dao, tục ngữ, thành ngữ và lời ăn, tiếng nói hằng ngày đi vào thơ Nguyễn Du, trở thành của Nguyễn Du chan hoà tan biến trong phong cách của nhà thơ.
Từ Truyện Kiều các nhân vật Thuý Kiều , Kim Trọng đã đi vào đời sống nhân dân rộng lớn. Cô gái đồng quê đã có thể ví có thể biểu lộ tâm trạng mình bằng câu ca 
“ Sen xa hồ , sen khô, hồ cạn .
 Liễu xa đào, liễu ngả, đào nghiêng.
 Em xa anh như bến xa thuyền
 Như Thuý Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái hồi”.
 Hồ Xuân Hương, “bà chúa thơ Nôm”, cũng học tập truyền thống ngôn ngữ và nghệ thuật ở thành ngữ, tục ngữ, ca dao một cách đậm nét và giàu sáng tạo.
 Hình ảnh “ quả cau nho nhỏ- cái vỏ vân vân” được Hồ Xuân Hương đưa vào bài thơ “ Mời trầu’ một cách duyên dáng, tinh tế: “ Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của xuân Hương mới quệt rồi”
 Hồ Xuân Hương làm trạng sư biện hộ cho người phụ nữ “ lỡ dại” “ Cả nể cho nên hoá dở dang.Không có nhưng mà có mới ngoan” cũng bằng những lí lẽ bắt nguồn từ văn học dân gian “ Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa, thế gian sự thường”. Những thành ngữ “ nòng nọc đứt đuôi”, “cóc bôi vôi”, ‘chịu đấm ăn xôi”, “làm mướn không công” đều , về ý hoặc về lời, được sử dụng đắc và sáng tạo trong thơ Hồ Xuân Hương: 
- Cố đấm ăn xôi , xôi lại hỏng
 Cầm bằng làm mướn , mướn không công ( Lấy lẽ)
- Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi ( Khóc Tổng Cóc)
Hồ Xuân Hương đã chọn ở tục ngữ, ca dao rất nhiều câu chua cay mai mỉa cuộc đời. Bà còn vận dụng cả nghệ thuật câu đố để diễn đạt nội dung trữ tình làm cho thơ bà bóng bẩy , hàm súc, đa nghĩa , đa trị
c- Cuối thế kỉ XIX, hai đại biểu ưu tú cuối cùng của văn học trung đại Việt nam là Nguyễn Khuyến và Tú Xương cũng là những bậc thầy trong việc vận dụng lời ăn tiếng nói dân gian vào thơ , phú, câu đối. Xin dẫn ra đây một câu đối khóc vợ của Tam nguyên Yên Đỗ và một số câu trong bài thơ “ Thương vợ” của ông Tú thành Nam. Các tác giả đã sử dụng các thi liệu dân gian một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo:
- “Nhà chỉn cũng nghèo thay! Nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
 Bà đi đâu vội mấy! Để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành , quần buông lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm ( Nguyễn Khuyến)
- “ Lặn lội thân cò khi quãng vắng 
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
 ( Thương vợ - Tú Xương)
d- Trong văn học hiện đại, các tác giả Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận , Chế Lan Viên,cũng luôn khẳng định vai trò to lớn của văn học dân gian đối với các sáng tác văn học để văn học thực sự là văn học hướng về quảng đại quần chúng công nông binh
 Trong văn thơ và trong lời nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dùng những cách nói quen thuộc gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân như gan vàng dạ sắt, anh em ruột thịt, sum họp một nhà, chân đồng vai sắt, chung lưng đấu cật đúng chỗ cần thiết. Nhiều trường hợp Người hoán cải cho phù hợp với văn cảnh, với nội dung mới nhưng ý vị thành ngữ , tục ngữ vẫn rõ rệt. Trong Di chúc , Người đã để lại một câu thơ khắc sâu vào tâm khảm mọi người:
 “ Còn non , còn nước , còn người 
Thắng giặc Mĩ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”
 Hình ảnh non nước là một hình ảnh thấm đượm màu sắc dân tộc. Ca dao nói nhiều đến non nước, thơ cổ nói chung, Truyện Kiều nói riêng cũng dùng nhiều hình ảnh này. Nói đến non nước, nước non là để gợi tình cảm yêu quê hương đất nước.
Tố Hữu , cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam đã vận dụng rất thành công Văn học dân gian Việt Nam trong các bài thơ của mình khiến cho thơ ông dễ đi vào trái tim quần chúng cách mạng. Nhạc điệu của nhiều bài thơ Tố Hữu là nhịp điệu của những điệu hò xứ Huế, của những câu hát đối đáp giao duyên truyền thống. Bài thơ Việt Bắc , kết tinh nghệ thuật thơ Tố Hữu trong giai đoạn chín năm kháng chiến chống Pháp đựoc cấu tứ theo kiểu hát đối đáp giao duyên với nhưng đại từ “mình”, “ ta” ngọt ngào tha thiết:
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?
Mình về mình nhớ ta không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?
Tố Hữu sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian trong sáng tác của mình
Dù ai nói ngả , nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn vững là dân Cụ Hồ
 Nhà thơ cách mạng vô sản đã sử dụng các hình ảnh lấy từ văn học dân gian ( Phù Đổng Thiên Vương, Thạch Sanh ) để xây dựng những hình tựơng mới ca ngợi sức quật khởi diệu kì của dân tộc trong thời đại cách mạng:
Hoan hô anh Giải phóng quân
Kính chào Anh, con người đẹp nhất!
Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi
Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ
 Nhiều tích truyện, nhân vật trong truyện cổ dân gian được các nhà thơ hiện đại lấy làm đề tài sáng tác . Tố Hữu viết về Mị Châu, Anh Ngọc viết Thị Mầu, Đỗ Trung Lai viết Thị Kính , Thị Mầu; Ngô Quân Miện viết Nghe khúc hát Trương Chi và đều kết tụ những bài học nhân sinh đầy ý nghĩa. Xin dẫn ra đây một vài câu thơ tiêu biểu:
 - “Tôi kể .ngày xưa chuyện Mị Châu
 Trái tim lầm chỗ để trên đầu
 Nỏ thần vô ý trao tay giặc
 Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” ( Tố Hữu)
 - “ Những cánh màn đã khép lại đằng sau
 Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt
 Bao Thị Mầu đã trở về đời thực
 Vị táo còn chua mãi ở đầu môi” ( Thị Mầu – Anh Ngọc)
 “ Anh là ai? Hỡi chàng Trương?
 Mờ sương tiếng hát , mờ sương mặt người
 Dẫu là anh cũng là tôi
 Dẫu ai thì cũng là người đang yêu” ( Ngô Quân Miện)
Đặc biệt , trong trường ca “ Mặt đường khát vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết một chương đầy tính phát hiện về “Đất Nước” trong “thời gian đằng đẵng” , “không gian mênh mông” và bề dày truyền thống văn hoá phong tục với giọng thơ vừa mang màu sắc chính luận vừa như lời tâm tình tha thiết dựa trên cơ sở vận dụng tục ngữ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuyết một cách hồn nhiên thú vị. Nguyễn Khoa Điềm đã góp cho đề tài Đất nước một áng thơ ý vị đậm đà:
 “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
 Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
 Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
 Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
 Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
 Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên
 Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Tóm lại, hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển, bộ phận văn học thành văn Việt Nam đã gắn bó song hành và chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học dân gian Việt Nam trên nhiều cấp độ , phương diện. Chính điều đó đã tạo nên tính nhân dân và tính dân tộc đậm đà cho bộ phận văn học này. Mặt khác, chính các nhà thơ , nhà văn đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của các sáng tác dân gian. Nhiều tác phẩm của họ được dân gian hoá, làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian các dân tộc. Các tác giả dân gian cũng học tập được nhiều điều bổ ích từ sáng tác của các nhà văn nhà thơ chuyên nghiệp. Họ đã khai thác không ít điển cố , điển tích, từ ngữ , hình ảnhtrong văn học viết để đưa vào các bài vè , câu hát . Mối quan hệ và tác động qua lại giữa hai bộ phận văn học là mối quan hệ rất khăng khít và lâu bền.
-------------------- Hết--------------

Tài liệu đính kèm:

  • docChuyen de VH dan gian.doc