Ngữ văn - Nguyễn Tuân và người lái đò sông Đà

Ngữ văn - Nguyễn Tuân và người lái đò sông Đà

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

1/ Cuộc đời:

- Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc (Hà Nội) trong

một gia đình nhà nho tài hoa.

- Thân sinh: Cụ Nguyễn An Lan (còn gọi là ông Tú Hải Văn) đỗ khoa thi Hán học

cuối cùng rồi đi làm viên chức nhỏ ở toà sứ các tỉnh dưới chế độ thuộc địa bất đắc dĩ. Cụ

cùng gia đình đã sống nhiều ở các tỉnh miền Trung: Khánh Hòa, Phú Yên, Hội An, Đà

Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, nhất là Thanh Hóa.

- Thuở nhỏ, bắt đầu đi học Nguyễn Tuân học chữ Pháp. Khi học đến bậc trung

học ở Nam Định, ông tham gia bãi khóa và bị đuổi học (năm 1929).

- Vào làng văn khá sớm và ông sống hẳn với ngòi bút từ năm 1937 (thời kỳ Mặt

trận dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh công nông do Đảng lãnh đạo) cho đến

khi ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội, sau một cơn đau tim đột ngột.

2/ Sự nghiệp sáng tác:

a) Trước cách mạng tháng Tám:

- Là cây bút tiêu biểu cho làng văn xuôi lãng mạn thời kỳ phát triển cuối cùng.

- Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940); Tuỳ bút I (1941); Chiếc lư

đồng mắt cua (1941), Một chuyến đi (1941); Tóc chị Hoài (1943); Tuỳ bút II (1943)

b) Sau cách mạng tháng Tám:

- Nguyễn Tuân đã sống những ngày đổi đời của dân tộc nên cũng như nhiều nhà

văn khác, ông đã quyết tâm “lột xác” hòa mình vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân.

- Năm 1946, chuyến đi đầu tiên của ông trong cuộc đời mới là tham gia đoàn sáng

tác văn nghệ đi vào mặt trận Nam Trung bộ đánh Pháp

pdf 11 trang Người đăng ngohau89 Lượt xem 1288Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ văn - Nguyễn Tuân và người lái đò sông Đà", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề: VĂN XUÔI 1954 – 1975 
Vấn đề 1: NGUYỄN TUÂN VÀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ 
“Chúng thủy giai đông tẩu 
Đà giang độc bắc lưu” 
Nguyễn Tuân 
Phần 1: NGUYỄN TUÂN (1910-1987): CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC 
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN 
I. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác 
1/ Cuộc đời: 
- Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc (Hà Nội) trong 
một gia đình nhà nho tài hoa. 
- Thân sinh: Cụ Nguyễn An Lan (còn gọi là ông Tú Hải Văn) đỗ khoa thi Hán học 
cuối cùng rồi đi làm viên chức nhỏ ở toà sứ các tỉnh dưới chế độ thuộc địa bất đắc dĩ. Cụ 
cùng gia đình đã sống nhiều ở các tỉnh miền Trung: Khánh Hòa, Phú Yên, Hội An, Đà 
Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, nhất là Thanh Hóa. 
- Thuở nhỏ, bắt đầu đi học Nguyễn Tuân học chữ Pháp. Khi học đến bậc trung 
học ở Nam Định, ông tham gia bãi khóa và bị đuổi học (năm 1929). 
- Vào làng văn khá sớm và ông sống hẳn với ngòi bút từ năm 1937 (thời kỳ Mặt 
trận dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh công nông do Đảng lãnh đạo) cho đến 
khi ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội, sau một cơn đau tim đột ngột. 
2/ Sự nghiệp sáng tác: 
a) Trước cách mạng tháng Tám: 
- Là cây bút tiêu biểu cho làng văn xuôi lãng mạn thời kỳ phát triển cuối cùng. 
- Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940); Tuỳ bút I (1941); Chiếc lư 
đồng mắt cua (1941), Một chuyến đi (1941); Tóc chị Hoài (1943); Tuỳ bút II (1943) 
b) Sau cách mạng tháng Tám: 
- Nguyễn Tuân đã sống những ngày đổi đời của dân tộc nên cũng như nhiều nhà 
văn khác, ông đã quyết tâm “lột xác” hòa mình vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân. 
- Năm 1946, chuyến đi đầu tiên của ông trong cuộc đời mới là tham gia đoàn sáng 
tác văn nghệ đi vào mặt trận Nam Trung bộ đánh Pháp. 
 1
- Năm 1948 lên đường ra Việt Bắc dự Đại hội văn hóa và Hội nghị văn nghệ toàn 
quốc. Ông được bầu làm Tổng thư ký đầu tiên của Hội Văn Nghệ Việt Nam. 
- Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã dự nhiều chiến dịch với bộ đội ở Tây 
Bắc, Đông Bắc, vào vùng sâu địch hậu Bắc Ninh để viết về du kích chống càn. 
- Tác phẩm tiêu biểu: Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950); Tùy bút kháng 
chiến (1955) 
- Trong kháng chiến chống Mĩ, ông đã đặt chân đến nhiều nơi tuyến lửa: Vĩnh 
Linh, cầu Hiền Lương, Quảng Bình ngược sông Đà hiểm trở và ngang dọc khắp các 
miền Than Uyên, Quỳnh Nhai, Sơn La để liên tiếp cho ra đời những bài tùy bút, bút ký 
nóng hổi tính thời sự và mang dấu ấn nghệ thuật độc đáo. 
- Tác phẩm chính: Sông Đà (1960); Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972); Kí (1976) 
II. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: 
Là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nguyễn 
Tuân được chú ý đặc biệt về phong cách nghệ thuật. Tính độc đáo của phong cách đó 
được thể hiện qua nhiều phương diện: 
1/ Khi sáng tác, Nguyễn Tuân hết sức nghiêm khắc với chính mình để có những 
trang văn thực sự có tính nghệ thuật mới mẻ, mang dấu ấn sáng tạo riêng. Ông luôn kiên 
trì quan điểm: đã gọi là văn thì trước hết phải là văn. Vì thế cách đặt câu, dựng đoạn của 
ông thường rất công phu, cũng như kho từ vựng của ông rất phong phú. 
2/ Nét nổi bật khác trong phong cách Nguyễn Tuân là chất tài hoa tài tử. 
Trước cách mạng, nhiều lần ông tuyên bố bênh vực quan điểm nghệ thuật vị nghệ 
thuật, nhưng trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của mình, ông luôn thể hiện niềm tự 
hào dân tộc sâu sắc, sự tôn trọng, khâm phục những giá trị văn hoá cổ truyền của quê 
hương. 
Tuy vậy, đôi lúc quá đà, chất tài hoa tài tử đó lại mang tính khoa trương, cường 
điệu (Chiếc lư đồng mắt cua). 
3/ Văn NguyễnTuân còn khác người ở tính uyên bác, ở bề rộng và chiều sâu văn 
hoá. Đó là kết quả của việc ông tích luỹ tiềm lực tri thức trong suốt nửa thế kỷ sáng tạo 
nghệ thuật. 
Đôi khi ông quá mê mải, sa đà vào khối lượng tri thức đó nên một số đoạn văn có 
phần nặng nề, khô khan, tạo cho người đọc cảm giác mệt mỏi (Tuỳ bút “Sông Đà”). 
III. Tập tuỳ bút “Sông Đà” 
Đây là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám của 
Nguyễn Tuân. “Nó nói rằng ngòi bút ấy đã đạt tới độ chín mới về tư tưởng và nghệ 
thuật”. 
(Nguyễn Đăng Mạnh) 
“Đọc “Sông Đà” thấy Tổ quốc ta thật là giàu đẹp. Chỉ nói riêng Than Uyên có 
nào mỏ xi măng thiên tạo, mỏ thạch anh làm thuỷ tinh ngũ sắc và đồ sứ, mỏ than mở, mỏ 
lân tinh, mỏ đồng, mỏ chìCảnh Tây Bắc thì tuyệt đẹp, ở đâu tác giả cũng nổi hứng 
nghệ sĩ muốn cắm ngay giá vẽ mà vẽ. Núi lớp lớp mênh mông như biển, sông trắng xoá 
 2
như từng súc lụa tung trải ra, những thung lũng lúa chín vàng choé lên, trên đó mây trắng 
điểm lơ lửng như thêu nổi v.v 
Nhưng “Sông Đà” không chỉ nói vẻ đẹp thiên nhiên mà còn đi tìm vẻ đẹp của lòng người. 
Ông gọi đó là chất vàng mười của tâm hồn con người Tây Bắc. Ông ngược dòng lịch sử 
tìm chất vàng đó ở những chiến sĩ cách mạng kiên cường đã theo gương bất khuất ở nhà 
tù Sơn La, ở những cán bộ hoạt động bí mật hồi Tây Bắc bị giặc chiếm đóng, đã vượt qua 
những thử thách khủng khiếp để gây cơ sở cách mạng, ở những chiến sĩ quân đội, những 
anh chị em dân công hồn tiến quân vào Điện Biên” 
(Nguyễn Đăng Mạnh – “Sông Đà” 
Trích “Nhà văn Tư tưởng và phong cách” 
NXB Văn học – 1983) 
Phần 2: TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - Nguyễn Tuân 
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN 
Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân không miêu tả một con sông theo lối văn tả cảnh thuần 
tuý mà đó là một nhân vật hoạt động, có tính cách tâm trạng rất phức tạp như con người. 
Nhà văn đã cho ta thấy hai tính cách cơ bản đó là “Con sông Tây Bắc hung bạo và trữ 
tình”. Tuy nhiên để dựng nên, để hiểu được tính nết của nhân “vật” thiên nhiên này, 
Nguyễn Tuân đã vận dụng rất nhiều các loại tri thức khác nhau như lịch sử, địa lí, quân 
sự , võ thuật, hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh, thơ Đường, thơ Tản Đà, để quan sát, mô tả 
hiện thực bằng nét bút tài hoa của mình. 
1/ a) Sông Đà là một “Nhân vật có tính cách hung bạo” . 
- Dòng sông rất dữ dội (bờ đá dựng vách thành, chẹt lòng sông Đà khiến nó hẹp 
lại, dòng sông như một cái hang, tối, sâu và lạnh). Tri thức điện ảnh trong việc mô tả hình 
ảnh có quan tâm tới mảng sáng tối từ mặt đất nhìn lên, từ một góc độ chếch ở cao nhìn 
xuống. Nó gây cảm giác mạnh: hơi lạnh, bóng tối, độ cao hun hút đến chóng mặt 
- Con sông luôn hung hăng, ưa gây sự. Nó luôn chờ đợi người lái đò sông Đà để giáng tai 
họa vào cho họ. 
(“Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió”) 
Những động từ mạnh, lặp lại và ken ken đặc nói đến sự tiếp diễn của hành động “xô” 
được diễn ra trên một không gian dài như con sông và hành động đó dữ dội không chỉ ở 
trong lòng mà cả trên mặt sông (“Cuồn cuộn luồng gió gùn ghe). 
- Tính cách hung bạo của sông Đà được biểu diễn dữ dội ở những dòng thác “lao dòng” 
chặn đánh người lái đò. 
Cong sông Đà “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một”. Nó hiện lên 
như một loài thủy quái khổng lồ vừa nham hiểm và hung dữ, vừa khôn ngoan và mưu trí. 
Lúc thì ẩn nấp mai phục, lừa đánh đòn du kích, khi thì vòng lại đánh kiểu vu hồi, khi thì 
xông xáo liều mạng, tổng tấn công tới tấp ồ ạt khắp bốn mặt. Và thật nham hiểm khi nó 
 3
biết kết hợp đánh người lái đò cả trên mặt trận ngoại giao; khi thì oán trách van xin, khi 
thì “khiêu khích, giọng gằn và chế nhạo”, khi thì “rống lên trong tất cả bấy nhiêu cái 
luồng giận dữ”, “reo như đun sôi”, “muốn hất tung đi một cái thuyền”. Khi thì hò la, gầm 
thét vang động núi rừng “Mặt nước hò reo la vang dậy “ùa vào” như thể “quân liều 
mạng”, “đánh những đòn hiểm độc nhất”. 
Quả thật con sông như một sinh thể thật sự. Trí tưởng tượng tạo hình của tác giả quan sát 
rất kỹ lưỡng và chính xác, tác giả cung cấp những kiến thức rất phong phú và không tùy 
tiện, đồng thời sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, sinh động. 
b) Sông Đà là một “nhân vật” có tính cách trữ tình: 
- Tác giả hình dung nó như một người đàn bà kiều diễm. 
+ “Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”. 
+ “Sông Đà luôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời 
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo” 
+ Sông Đà có “luồng em” “đằm dịu” muôn đời êm “sông nước thanh bình”. 
- Sông Đà được nhìn qua làn mây mùa xuân, ánh nắng mùa thu. Tác giả theo dõi những 
biến của màu sắc. Khi “lừ lừ chín đỏ” khi “dòng xanh ngọc bích”. 
- Sông Đà thật mĩ lệ, có thể gợi cảm hứng cho nghệ thuật, gợi cảm xúc riêng biệt cho mỗi 
người khi tiếp xúc với tính cách trữ tình của nó: Nó có chất Đường thi cổ điển, cái lặng lờ 
của nó gợi nhớ một quá khứ xa xăm từ thời Lí, Trần, Lê, nó “lửng lờ nhớ thương” và 
“đang lắng tai nghe” với dáng vẻ rất dịu dàng, ủy mị và thầm kín. 
Con sông ấy gợi nhớ cố nhân, gợi nhớ cái “hoang dại”, “hồn nhiên như một niềm cổ tích 
tuổi xưa”. 
Đặc biệt hình ảnh con nai ngơ ngác như nghe thấy một tiếng còi sương đó là một âm 
thanh vẳng đưa trong tưởng tượng đã gợi cái tĩnh lặng hoang dã của sông Đà. Thật là một 
liên tưởng tạt ngang rất độc đáo và thú vị. 
2/ Nhân vật người lái đò Sông Đà: 
- Nhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân nhìn như là đối tượng của cái Đẹp. Nó lấp 
lánh ánh sáng của người tài hoa nghệ sĩ. Theo Nguyễn Tuân, không cứ gì cứ là người 
hoạt động ở các ngành nghệ thuật họ mới là kẻ tài hoa nghệ sĩ. Mà những con người xung 
quanh chúng ta biết tôn trọng cái Đẹp đều có thể ứng xử Đẹp và tự giác sáng tạo ra cái 
Đẹp. Những người uống trà trong sương sớm, những kẻ biết thưởng thức “hương cuội” 
đều là những nghệ sĩ tài hoa. Và do vậy “Người lái đò sông Đà “là người lái đò – nghệ 
sĩ”. Chờ đò, lái đò là cả một nghệ thuật cao cường và đầy tài hoa. 
Nghệ thuật ở đây chính là nó đã nhập thân vào người lái đò cả phương diện hình thức lẫn 
tính cách. “Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy 
nắm được qui luật tất yếu của dòng sông Đà (tr. 154). 
Hình ảnh người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân dựng tượng khiến cho ta như sờ mó 
được. Bức tượng ấy không phải là con người chung chung mà nó tạo dáng hết sức riêng 
 4
biệt không thể đặt tên gì khác hơn là “người lái đò sông Đà”. Bức tượng hắt chiếu ra tính 
cách bên trong của con người này. 
“Tay ông dài lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào nhỡn giới ông vời vợi như lúc 
nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù” (tr. 146) 
- Để làm nổi bật tài nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác 
của ông như là một viên tướng ngày xưa lao vào một trận đồ bát quái của Khổng Minh 
với biết bao nhiêu cạm bẫy, hết vòng này đến vòng khác, và mỗi vòng, đá trên thác sông 
Đà đều có những viên tướng mưu trí và gian thâm chỉ huy. 
Để áp đảo “kẻ địch” dám “quân thác đá” còn nổi trống chiêng la hò dữ dội “Rống lên như 
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu cháy bùng 
bùng” (tr. 151) 
Thật là một liên tưởng hết sức bất ngờ. Đây là lối liên tưởng tạt ngang, nối kết hai sự kiện 
rời nhau dường như chúng không có sự tương đồng. Câu chuyện nói về “nước” lại được 
liên tưởng với “lửa”. Câu chuyện nói về “đá thác” ở đây là liên tưởng tới “đàn trâu” và 
“rừng bị cháy”. Nếu không có  ... gười của đất nước mà Nguyễn Tuân đã lặn lội lên Tây Bắc để rồi hứng khởi viết tập tùy 
bút “Sông Đà”. Và chính vì tấm lòng dạt dào yêu thương đó ông đã cho người đọc 
thưởng thức những dòng văn biến hóa linh hoạt rất mạnh mẽ nhưng giàu tình cảm. Tình 
yêu thiên nhiên sâu sắc đã khiến ông nhìn con Sông Đà như một người có cá tính, có linh 
hồn và có cả tâm trạng, lúc “ặc ặc giận dữ”, lúc “oán trách”, lúc “van xin”, rồi lại như 
khiêu khích, giọng gằn và chế nhạo. Ông đã viết “Con Sông Đà gợi cảm” nhưng ông nhìn 
Sông Đà đầm ấm như một cố nhân và trông con sông mà “Vui như nối lại chiêm bao đứt 
quãng”. 
Nguyễn Tuân say mê trong những dòng cảm xúc miên man về việc khai thác những vẻ 
đẹp của người lái đò Sông Đà, cả về hình dáng lẫn tài năng. Không phải ngẫu nhiên mà 
ông ví cái “vết bầm lên một khoanh củ nâu trên ngực vú, bả vai người lái đò là cái đồng 
tiền tụ máu là hình ảnh quí giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho 
người lái đò Sông Đà”. Sự ví von đó không chỉ thể hiện tài hoa của Nguyễn Tuân trong 
nghệ thuật so sánh, sự độc đáo trong trí tưởng tượng phong phú, mà còn là một biểu hiện 
tình cảm sâu sắc đối với nghề lái đò âm thầm mà cực kỳ gian truân của người lái đò Sông 
Đà. 
* Qua bài “Người lái đò Sông Đà”, ta thấy được rất rõ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và 
con người của Nguyễn Tuân. Trong mỗi trang viết, ông luôn chứng tỏ nét tài hoa và uyên 
bác của mình. Vì vậy, mỗi nhân vật của Nguyễn Tuân, từ “nhân vật” thiên nhiên đến 
“nhân vật” con người, dù người lái đò bình thường đi chăng nữa cũng mang một cái gì đó 
rất thơ mộng, rất nghệ sĩ. 
Những quan sát, suy nghĩ, xúc cảm của ông rất tinh vi nhưng cũng rất chân thật, xuyên 
suốt cả tác phẩm là lời văn mạnh mẽ, dữ dội và đầy chiều sâu kiến thức lẫn chiều sâu của 
ngôn ngữ văn chương. Có điều, đôi khi ông quá mê mải, sa đà vào khối lượng trí thức 
ngồn ngộn, sa đà vào việc tỉa tót văn chương, đã làm một số đoạn văn trở nên nặng nề, 
khô khan và tản mạn. 
Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về con Sông Đà, nhà văn bộc lộ 
cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của mình, qua “Người lái đò 
Sông Đà”, người ta luôn bắt gặp những hình ảnh ví von độc đáo, bất ngờ. Bài viết cho ta 
cảm giác Nguyễn Tuân muốn đua tài năng viết văn của mình với vẻ đẹp tạo hóa, của 
thiên nhiên và con người. Chính vì thế mà Sông Đà trong văn chương ông vừa là Sông 
Đà hiện thực, vừa là Sông Đà nghệ thuật mang tình yêu của Nguyễn Tuân. 
(Bài làm học sinh) 
Đề 2: Bình giảng đoạn văn sau đây trích trong bút kí Người lái đò Sông Đà của Nguyễn 
Tuân: 
“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng lờ. Hình như từ đời Lí đời Trần 
đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô 
 8
nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịch không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang 
ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông 
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. 
Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu 
tiên đường sắt Phú Phọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi 
áng có sương, chăm chăm nhìn tôi lừ đừ trôi trên một mũi đỏ. Hươu vểnh tai, nhìn tôi 
không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông 
khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” Đàn cá dầm xanh 
quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn 
hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – bao nhiêu cảnh 
bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng 
này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. 
Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông 
đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt 
mình dây cổ điển trên dòng trên”. 
* Gợi ý làm bài 
Người lái đò Sông Đà là một bút kí rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà 
(1960). Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là “hung bạo và trữ tình” đã được 
khắc hoạ thật đậm nét. Để có thể khách thể hóa được đối tượng và “đóng đinh” nó vào trí 
nhớ độc giả, Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu” ngôn ngữ tưởng chi mình không 
mới có. Khi miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”, câu văn của ông 
mang nhịp điệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi ca ngợi “con sông Đà gợi cảm”, câu văn 
lại thư duỗi hết sức êm ả nghe như một tiếng hát ngân nga. Văn Nguyễn Tuân gồm chứa 
cả hai cực đó là cực thứ hai – cực trữ tình mềm mại và thấm đượm một thứ “mĩ học hoài 
cựu” độc đáo được thể hiện rất rõ trong đoạn văn từ câu “Thuyền trôi trên sông” đến 
câu “khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. 
Nội dung của đoạn văn là nói về vẻ thơ mộng của Sông Đà ở quãng trung lưu. Thác 
ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế 
cũng trở nên lâng lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi 
trôi trên sông Đà”. Cái ý “lặng lờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng 
điệp rất đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời 
Lê, quãng sông này cũng lặng lờ như thế là thôi”, nghĩa là không thể lặng lờ hơn được 
nữa! Thiên nhiên thật hài hòa và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, dành riêng cho con mắt 
nhìn “xanh non” của tác giả những hình ảnh kì thú: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn 
búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” Cảnh đã làm cho vị tình 
nhân của non nước Đà giang hết sức xúc động. Ông thấy cần phải nói thêm nữa để diễn tả 
cho cùng kiệt đặc tính của đối tượng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông 
hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Những so sánh lạ lẫm, chính xác mà cũng 
thật Nguyễn Tuân! Nhà văn đã đi ngược thói quen, đem giải thích một đặc tính vốn đã 
khá trừu tượng bằng những khái niệm trừu tượng hơn nữa, khiến cho cảm giác trực tiếp 
bỗng mở ra những liên tưởng trùng trùng, bát ngát. Đi từ “hoang dại”, “hồn nhiên” là cái 
còn có thể cảm nhận được, đến “tiền sử” và “nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, câu văn đã cập 
bờ siêu cảm giác, đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận nó bằng siêu giác quan chứ không 
phải bằng giác quan bình thường. Trong câu tiếp theo: “Chao ôi, thấy thèm được giật 
mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên 
 9
Bái – Lai Châu”, một mặt nhà văn bộc lộ thèm ước muốn có tiếng còi kéo mình ra khỏi 
mạng lưới vô hình mà quấn chặt của giấc mơ xưa, mặt khác tạo nên một cái cớ tuyệt diệu 
để biến cả một đoạn văn thành một bài thơ siêu thực mà trong đó giữa người với cảnh có 
sự tương thông rất đỗi huyền nhiệm và cái hư phút chốc biến thành cái thực: “Con hươu 
thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ đừ trôi trên một mũi 
đỏ. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của 
con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi 
sương?” 
Người mơ cảnh cũng mơ, và cái thời điểm “ông khách sông Đà” bỗng nghe ra tiếng chú 
hươu gọi hỏi chính là đỉnh điểm của giấc mơ đó. Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ 
ngay giữa ban ngày để rồi sau đó như sực tỉnh với tiếng động của “Đàn cá dầm xanh 
quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn 
hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cũng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kỳ 
sống động mà ai được một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mãi. Bút pháp mượn cái động 
để tả cái tĩnh đã được vận dụng ở đây hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng 
cá quẫy cũng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cái tĩnh 
không đồng nghĩa với sự phẳng lặng, đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ, vẫn 
không ngớt biến hóa. Theo con thuyền thả trôi, điểm nhìn của nhà văn liên tục di động và 
“di động” hơn nữa là cái nhìn của Nguyễn Tuân. Có vẻ như ông muốn học cách nhìn của 
“con hươu thơ ngộ”, “vểnh tai”, “nhìn không chớp mắt” những sự vật như hiện lên từ thế 
giới cổ tích, sau đó truyền sự bỡ ngỡ lại cho độc giả qua những từ dùng độc đáo, sáng 
tạo, kích thích rất mạnh giác quan và vốn ngôn ngữ của chúng ta: “thơ ngộ”, “đầu 
nhung”, “áng cỏ sương”, “tiếng còi sương”. Vật nào cảnh nào được cây đũa thần của 
nhà văn động đến đều cựa quậy, không chịp ép mình làm một tiêu bản dẹt. Có lúc, 
Nguyễn Tuân như vượt qua lề luật của phép diễn đạt thông thường để viết: “Đàn cá đầm 
xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Có thể nói câu văn kia đã được 
viết theo bút pháp của hội họa “lập thể” mà mục đích của nó là muốn cùng một lúc thấy 
được sự vật ở nhiều chiều. Trước một nét miêu tả rất cô đọng như thế, ta không chỉ thấy 
mà còn nghe – thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng cá và nghe tiếng quẫy nước rộn ràng 
vang ngân. 
Nguyễn Tuân là người hết sức nặng tình với con sông đất nước. Trong khi thưởng ngoạn 
vẻ đẹp thơ mộng của Sông Đà, trong ông dậy lên bao mối liên tưởng về lịch sử, dậy lên 
cảm giác hàm ơn sâu xa đối với cổ nhân. Việc ông nhắc tới đời Lý, đời Trần, đời Lê và 
câu thơ của Tản Đà cho thấy rõ một thiên hướng bộc lộ cảm xúc rất đặc thù của người 
từng viết “Vang bóng một thời. Nhưng trước vẻ “hoang dại” của bờ sông Đà, nhà văn 
cũng có những suy nghĩ mang tính tích cực của người công dân mới, mong cuộc sống 
hiện đại tỏa chiếu ánh sáng lên cả chốn sơn cùng thuỷ tận. “Tiếng còi sương” xuất hiện ở 
đây ngân xa như một khát vọng, nó hài hòa với cảm hứng lịch sử, tạo cho đoạn văn một 
vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa hiện đại. Đối với Nguyễn Tuân, những cái gì mang trong nó hơi 
thở ấm áp của cuộc đời đều để thương, để nhớ, để lưu luyến cho ông. Trong những câu 
cuối của đoạn văn này, ông đã trải lòng mình ra với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng 
nghe và xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa 
xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói 
êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó 
khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Qua mỗi dặm 
đường đất nước, nhà văn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ. 
 10
Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam – những “đồng tác 
giả” của trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên “trăm dáng sông xuôi” (ý thơ của 
Nguyễn Khoa Điềm). 
Chỉ mới qua một đoạn trích ngắn ngủi, ta chưa có điều kiện thấy hết những đặc sắc của 
văn Nguyễn Tuân. Nhưng chừng ấy tưởng cũng đã đủ để ta quý trọng một tài năng, một 
tấm lòng, một Nguyễn Tuân – con người suốt cuộc đời đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để 
sáng tạo nên những áng văn đẹp làm phong phú, giàu có thêm đời sống tinh thần của tất 
cả độc giả chúng ta. 
* * * 
 11

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvantap6-NguoiLaiDoSongDa.pdf