Giới thiệu Truyện Kiều với bạn đọc Việt Nam là điều không ai dám làm, tôi lại càng không dám. Trong quyển “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” (NXB khoa học xã hội, 1983) tôi chỉ dám giới thiệu một cách đọc trong nhiều cách đọc khác nhau. Đó là cách đọc Truyện Kiều với Kim Vân Kiều để tìm sự khác nhau. Trong hoàn cảnh của tôi, sự đối lập chỉ có thể tiến hành sơ bộ, không thể đi vào chi tiết cụ thể.
Tôi rất sung sướng được giới thiệu công trình này ở đấy sự đối chiếu được thực hiện chi tiết và công phu. Ở đây bạn đọc có thể tự mình xác định những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai tác phẩm nhằm quy định xem phần nào của Nguyễn Du, phần nào của Thanh Tâm Tài Tử để thanh toán quan điểm cho rằng Truyện Kiều chẳng qua là sách dịch.
Tháng 11 năm 1988, tôi được may mắn gặp thầy Hoàng Xuân Hãn, chuyên gia số một về chữ Nôm ở Paris. Thầy cho biết thầy có chuẩn bị mộ bản Kiều với hi vọng là nó gần nguyên tác nhất. Bản Kiều ông Phạm Đan Quế ghi lại ở đây tạm thời xem như dùng được. Đó là bản cụ Đào Duy Anh phiên, với một số chỗ chỉnh lí do ông Nguyễn Quảng Tuân làm mà tôi thấy là ổn. Quyển từ điển Truyện Kiều in khi tôi không ở trong nước để chữa bản in nên đầy những lỗi đến mức không thể chấp nhận được. Ngay ở văn bản Truyện Kiều cũng vô số lỗi. Đây là dịp may cho phép tôi tạ lỗi với bạn đọc.
PHẠM ĐAN QUẾ Bản dịch: KIM VÂN KIỀU – THANH TÂM TÀI NHÂN Của TÔ NAM – NGUYỄN ĐÌNH DIỆM Bản phiên TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU của ĐÀO DUY ANH LỜI GIỚI THIỆU (PHAN NGỌC) Giới thiệu Truyện Kiều với bạn đọc Việt Nam là điều không ai dám làm, tôi lại càng không dám. Trong quyển “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” (NXB khoa học xã hội, 1983) tôi chỉ dám giới thiệu một cách đọc trong nhiều cách đọc khác nhau. Đó là cách đọc Truyện Kiều với Kim Vân Kiều để tìm sự khác nhau. Trong hoàn cảnh của tôi, sự đối lập chỉ có thể tiến hành sơ bộ, không thể đi vào chi tiết cụ thể. Tôi rất sung sướng được giới thiệu công trình này ở đấy sự đối chiếu được thực hiện chi tiết và công phu. Ở đây bạn đọc có thể tự mình xác định những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai tác phẩm nhằm quy định xem phần nào của Nguyễn Du, phần nào của Thanh Tâm Tài Tử để thanh toán quan điểm cho rằng Truyện Kiều chẳng qua là sách dịch. Tháng 11 năm 1988, tôi được may mắn gặp thầy Hoàng Xuân Hãn, chuyên gia số một về chữ Nôm ở Paris. Thầy cho biết thầy có chuẩn bị mộ bản Kiều với hi vọng là nó gần nguyên tác nhất. Bản Kiều ông Phạm Đan Quế ghi lại ở đây tạm thời xem như dùng được. Đó là bản cụ Đào Duy Anh phiên, với một số chỗ chỉnh lí do ông Nguyễn Quảng Tuân làm mà tôi thấy là ổn. Quyển từ điển Truyện Kiều in khi tôi không ở trong nước để chữa bản in nên đầy những lỗi đến mức không thể chấp nhận được. Ngay ở văn bản Truyện Kiều cũng vô số lỗi. Đây là dịp may cho phép tôi tạ lỗi với bạn đọc. Ở nhà thầy Hãn, tôi có đọc một quyển chép tay. Tên là Kim Kiều truyện diễn tự dịch Truyện Kiều ra thơ chữ Hán bằng lục bát. Đây là bốn câu mở đầu: Nhân sinh bách tuế vi kì Nhất tài nhất mệnh tương vi hỷ trù Tang điền thương hải quan vu Nhãn tiền đế cục, nhân thù thương tâm (Trăm năm trăm cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng). Thầy Hãn cho tôi một quyển Kim Vân Kiều truyện , tác giả là Thanh Tâm Tài Nhân do NXB Xuân Phong văn nghệ xuất bản, in năm 1983 do Tân Hoa thư cục của Liêu Ninh phát hành. Theo lời thuyết minh của NXB thì nó là tiểu thuyết tương đối có ảnh hưởng vào cuối Minh đầu Thanh nhưng số bản lưu truyền hết sức ít, chỉ có bản giữ ỏ Đại Liên Đồ thư quán là bản tốt nhất. Sau phần về truyện Kim Vân Kiều có bài viết của Lý Trí Trung về tác phẩm này. Bài này có những nhận xét đáng chú ý. Tôi lược dịch những điều cần thiết với bạn đọc Việt Nam. Từ Hải tự là Minh Sơn, người An Huy, sau làm hòa thượng ở Hàng Châu nên có hiệu là Minh Sơn hòa thượng, người khôn ngoan, giảo hoạt, dùng lối bói oán thu hút dân chúng, tự xưng là Thiên Sai Bình Hải Đại tướng quân. Năm 34 niên hiệu Gia Tĩnh, đời Minh (1555), Từ chỉ huy bọn nụy khẩu đánh cướp Sạ Thổ, Bình Hồ, Gia Hưng, Tô Châu, Hàng Châu, thế ngày càng mạnh. Hồ Tôn Hiến lợi dụng mâu thuẫn, li gián tả hữu, dụ Từ Hải hàng, lại ngầm hối lộ người sủng thiếp Thúy Kiều khuyên bảo Từ hàng. Từ thấy thế cô lại quá tin lời khuyên của Thúy Kiều, bèn quyết ý đầu hàng. Quan quân nhân lúc Từ đến hàng bố trí phục binh bốn bên đánh, Từ mang Thúy Kiều vừa đánh vừa chạy, cuối cùng bị vây nhẩy xuống nước mà chết. Thúy kiều lại được Mao Khôn đời Minh nói đến lần đầu tiên trong quyển “Chép lại đầu đuôi chuyện dẹp trừ Từ Hải” (Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt):Vương Thúy Kiều là kĩ nữ Lâm Tri, đầu tên là Kiều Nhi, giỏi hát lối mới, thạo hồ cầm. Sau tìm cách trốn khỏi nhà xướng ca, đổi tên ở bên bờ biển. Nụy khẩu đánh Giang Nam, bắt Thúy Kiều đem đi, rồi trở thành áp trại phu nhân của Từ Hải. Từ Hải rất yêu quý nàng, mọi kế hoạch đều nghe theo nàng. Quan quân phái người chiêu hàng, Kiều đem nhiều việc khuyên Hải, Hải mới quyết tâm hàng. Quan quân bố trí kế hoạch, Từ Hải thu chết, Thúy Kiều cũng bị quan quân cướp. Sau khi bị Đốc phủ làm ô nhục, Kiều bị gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận làm thiếp. Trên đường qua sông Tiền Đường, Thúy Kiều than: Minh Sơn hậu đãi ta, ta vì việc nước dụ hàng mà bị hại. Giết một người chồng rồi lại lấy một người chồng, còn mặt mũi nào sống nữa! Bèn nhảy xuống sông mà chết! Qua chuyện này được đưa vào tiểu thuyết. Đầu tiên là Chu Tịch đời Minh trong “Tây Hồ nhị tập” có nói đến chiến công quan Hồ thiếu bảo bình định nụy khâu. Sau đó Dư Hoài đời Minh viết “Vương Thúy Kiều truyện” trong “Ngu Sơ tâm chí” (quyển 8). Ở đây Thúy Kiều được miêu tả thành một người đẹp đa tài, trang nhã, đáng kính, đáng yêu nhưng bạc mệnh. Và Từ Hải thành một người có chí lớn, hào sảng, một đại trượng phu có phong vận. Trình độ tiểu thuyết hóa càng tăng lên trong “Vương Thúy Kiều truyện” của Hồ Khoảng. Từ Hải thành một anh hùng tuy bị lừa vẫn chiến đấu quyết liệt. Sau đó mới đến tác phẩm “Kim Vân Kiều” của Thanh Tâm Tài Tử. Hiện nay chưa ai xác định được Thanh Tâm Tài Tử là ai?Có người dẫn tài liệu chép tay của Lý Nhân Phủ, người Việt Nam nói ông đã đọc “Từ Văn Trường tập” và “Thanh đằng lộ sử phân thích” ở sau hai tập này có phần phụ lục “Kim Vân Kiều” nên nói nó là của Từ Văn Trường tức là Từ Vị. Có người củng cố thuyết này bằng cách dẫn một đoạn trong “Tiêu hạ nhàn đàm” nói: “Từ Văn Trường, người Sơn Âm, làm khách dưới trướng Hồ Tôn Hiến. Hồ Tôn Hiến trong việc bình định nụy khẩu Từ Hải, sai đưa nhiều của cải cho người kĩ nữ Từ Hải yêu quý là Thúy Kiều khiến nàng thuyết phục Từ Hải đầu hàng. Hải chết, Hồ nhận Thúy Kiều làm thiếp. Lúc bấy giờ Thúy Kiều ở nhà chùa, Văn Trường muốn xem, mặc áo, đội mũ nhà sư, ở ngoài tường đùa bỡn với Thúy Kiều. Hồ Tôn Hiến biết giận lắm, tập hợp các nhà sư lại, sai Thúy Kiều nhận mặt. Kiều chỉ lầm một người giống Từ, liền bị Hồ Tôn Hiến giết”. Từ Văn Trường có viết “Mộc Lan nữ” tưởng nhớ Thúy Kiều. Nhưng Lý Trí Trung đã tìm ở các thư quán Trung Quốc và Mĩ thì không thấy truyện “Kim Vân Kiều” ở sau “Từ Vân Trường” và “Thanh đằng lộ sử phân thích”. Hơn nữa trong các tác phẩm khác Từ Vị rất mực ca ngợi Hồ Tôn Hiến thì trong truyện “Kim Vân Kiều”lại ca ngợi Từ Hải, còn Hồ Tôn Hiến trở thành một con người bất tín, bất nghĩa, hiếu sắc. Từ Vị là nhà văn rất lớn đời Minh, phong cách khác xa trong truyện “Kim Vân Kiều”. Do đó khó lòng xác định Từ Vị chính là Thanh Tâm Tài Tử. Bản dịch của Đại Liên Đồ thư quán mà tôi có về cơ bản là một với bản của Viễn Đông Bác Cổ. Ông Phạm Đan Quế đã có công giới thiệu một cách nhìn đối chiếu hai tác phẩm khá chi tiết. Tôi hoan nghênh công việc nghiên cứu dựa trên bằng chứng, tiến hành đối lập để tìm ra quan hệ. Đó là cách làm hiện đại, bổ ích cho việc nghiên cứu khách quan. Còn việc đánh giá là tùy từng người, nhất là tùy thuộc vào vốn kiến thức của người nghiên cứu nên kho lòng đòi hỏi sự nhất trí. Xin giới thiệu công trình với bạn đọc và hy vọng nó được tiếp đónm xứng đáng với công sức người có sáng kiến này. (Hà Nội, thàng 01 năm 1991) SO SÁNH ĐỐI CHIẾU GIỮA HAI TÁC PHẨM I. SO SÁNH HAI TÁC PHẨM THEO TỪNG HỒI Nhìn chung, về cốt truyện, hệ thống nhân vật, thứ tự trình bày các sự kiện, những vấn đề luân lí, triết lí, và đôi khi cả các chi tiết, Nguyễn Du đã dựa rất nhiều vào bản gốc của Thanh Tâm Tài Tử. Tuy nhiên, ông đã chọn những sự việc chính, lược bỏ nhiều đoạn rườm rà và có khi chỉ tóm tắt trong một số ít câu cả một đoạn dài trong truyện. Và sự khác nhau cơ bản là ở chỗ: các sự kiện trong Kim Vân Kiều là sự kiện chắp nối còn trong Truyện Kiều là sự kiện hữu cơ. Nguyễn Du đã đổi mới Kim Vân Kiều bằng cách thay đổi các quan hệ số lượng giữa các bộ phận như bạn đọc có thể thấy trong bản so sánh, từng hồi tiếp theo đây và nhất là khi đi vào từng chi tiết, từng đoạn văn cụ thể. Ta biết trong các cuốn tiểu thuyết chương hồi, sau khi trình bày hết các sự kiện trong một hồi thường có đoạn mở ra sự việc mới để “muốn biết thế nào, xem hồi sau sẽ rõ”. Để làm việc đó, Nguyễn Du thường thêm những câu chuyển đoạn rất tài tình như tả cảnh, tả tâm trạng nhân vật hoặc một vài câu dẫn chuyện. Sau đây là bảng so sánh giữa hai cuốn theo từng hồi: TT Số trang chữ Hán Số câu thơ của Nguyễn Du Từ câu.đến Nội dung 1 18 170 1-170 Kim – Kiều gặp gỡ 2 19 198 171- 368 Kim - Kiều giao ước 3 21 160 369-528 Kim – Kiều thề nguyền 4 17 230 529-758 Kiều quyết định bán mình 5 17 20 665-684 Hoàn thành giá thú 6 13 0 7 25 148 759-906 Trao duyên Từ biệt gia đình 8 23 156 907-1062 Vào lầu xanh lần 1 9 18 86 1063-1148 Mắc lừa Sở Khanh 10 22 70 1149-1218 Tú Bà dạy nghề 11 18 152 1219-1370 Gặp Thúc Sinh 12 19 94 1371-1464 Lấy Thúc Sinh 13 29 158 1465-1622 Thúc Sinh về quê Hoạn Thư 14 22 200 1623-1822 Bị Hoạn Thư bắt 15 21 94 1823-1916 Bị Hoạn Thư hành hạ 16 26 144 1917-2060 Hai lần đi tu 17 20 170 2061-2230 Vào lầu xanh lần 2 Gặp Từ Hải 18 38 230 2231-2460 Báo ân, báo oán 19 31 278 2461-2738 Từ Hải đầu hàng Kiều tự tử được vớt 20 35 516 2739-3254 Tái hồi Kim Trọng Qua bảng so sánh trên, ta thấy Nguyễn Du gần như giữ nguyên trình tự các sự kiện. Tuy nhiên ông đã bỏ hẳn hồi 5 và hồi 6 chỉ thu lại trong 20 câu xen vào giữa hồi trước; riêng hồi 20 – Tái hồi Kim Trọng – ông đã diễn tả bằng 526 câu tức là gần 1/6 tác phẩm. Và nếu tính cả hai hồi trước đó thì ba hồi cuối chiếm tới 1024/3254 câu gần bằng 1/3 tác phẩm. II. NỘI DUNG CUỐN TRUYỆN KIỀU ĐỐI CHIẾU 1. Về nội dung cuốn sách, sắp xếp như sau: - Giữ nguyên thứ tự của 20 hồi trong cuốn Kim Vân Kiều & đặt sau mỗi hồi là một nội dung tương ứng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Riêng hồi 5 và 6 không có trong phần tương ứng trong Truyện Kiều. 2. Kí hiệu ghi chú trong cuốn sách * Trong phần Kim Vân Kiều: + Gạch dọc bằng nét kép bên phải các đoạn mà Nguyễn Du đã sử dụng nhiều tình tiết. + ... ời Gặp nàng khi ở Châu Thai Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng 2925-đại quân đồn đóng cõi Đông Và sau chẳng biết vân mồng làm sao Nghe tường ngành ngọn tiêu hao Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ Xót thay chiếc lá bơ vơ 2930-kiếp trần biết giữ bao giờ cho xong Hoa trôi nước chảy xuôi dòng Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan Lời xưa đã lỗi muôn vàn Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây 2935-đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi? Bình bồng còn chút xa xôi Đỉnh chung sao lỡ ăn ngồi cho an! Rắp mong treo ấn từ quan 2940-mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha Dấn mình trong án can qua Vào sinh ra tử họa là thấy nhau Nghĩ điều trời thẳm vực sâu Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! 2945-những là nấn ná đợi tin Nắng mưa đã biết mấy phen đổi đời Năm mây bỗng thất chiếu trời Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành Kim thì cải nhậm Nam Bình 2950-chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương Sắm xanh xe ngựa vội vàng Hai nhà cũng thuận một đường phó quan Xẩy nghe thế giặc đã tan Sóng êm Phúc Kiến,lửa thàn Chiết Giang 2955-được tin Kim mới rủ Vương Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa Hàng Châu đến đó bấy giờ Thật tình hỏi được tóc tơ rành rành Rằng: ngày hôm nọ giao binh 2960-thất cơ Từ đã thu linh trận tiền Nàng Kiều công cả chẳng đền Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù Nàng đà gieo ngọc chìm châu Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan 2965-thương ôi, không hợp mà tan Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng Chiêu hồn thiết vị lễ thường Giải oan lập một đàn tràng bên sông Ngọn triều non bạc trùng trùng 2970-vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo Tình thâm bể thảm lạ điều Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào? Cơ duyên đâu bỗng lạ sao Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi 2975-trông lên linh vị chữ bài Thất kinh mới hỏi: những người đâu ta? Với nàng thân thích gần xa Người còn sao bỗng làm ma khóc người Nghe tin ngơ ngác rụng rời 2980-xúm quanh kể họ rộn lời hỏi tra Này chồng này mẹ này cha Này là em ruột này là em dâu Thật tin nghe đã bấy lâu Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường 2985-sư rằng: nhân quả với nàng Lâm Tri buổi trước, Tiền Đường buổi sau Khi nàng gieo ngọc chìm châu Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về Cùng nhau nương cửa bồ đề 2990-thảo am đó cũng gần kề chẳng xa Phật tiền ngày bạc lân la Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây Nghe tin nở mặt nở mày Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? 2995-từ phen chiếc lá lìa rừng Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây Rõ ràng hoa rụng hương bay Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi Minh dương đôi mắt chắc rồi 3000-cõi trần mà lại thấy người Cửu nguyên Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên Bộ hành một lũ theo liền một khi Bẻ lau vạch cỏ tìm đi Tình thâm luống hãy hổ nghi nửa phần 3005-quanh co theo dải giang tân Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường Giác Duyên lên tiếng gọi nàng Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra Trông xem đủ mặt một nhà: 3010-xuân già còn khỏe, huyên nhà còn tươi Hai em phương trưởng hòa hai Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa Tưởng bây giờ là bao giờ Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao 3015-giọt châu thánh thót quen bào Mừng mừng,tủi tủi, xiết bao là tình Huyên nhà dưới gối gieo mình Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi: Từ con lưu lạc quê người 3020-Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm Tính rằng sông nước cát lầm Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây Ông già trông mặt cầm tay Dung quanh chẳng khác chi ngày bước ra 3025-bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa Mười phần xuân có gầy ba bốn phần Nỗi mừng biết lấy chi cân? Lời tan hợp, chuyện xa gần thiếu đâu Hai em hỏi trước han sau 3030-đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi Quây nhau lạy trức Phật đài Tái sinh trần tạ lòng người từ bi Kiệu hoa giục giã tức thì Vương ông dạy rước cùng về một nơi 3035-nàng rằng chút phận hoa rơi Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay Tính rằng mặt nước chân mây Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Được rày tái thế tương phùng 3040-khát khao được thỏa tấm lòng lâu nay Đã đem mình bỏ am mây Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa Mùi thiền đã bén muối dưa Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng 3045-sự đời đã tắt lửa lòng Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi Dở dang nào có hay gì Đã tu tu trót qua thì thì thôi Trùng sinh ơn nặng bể trời 3050-lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi Ông rằng: bỉ thử nhất thì Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền Phải điều cầu phật cầu tiên Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây 3055-độ sinh nhờ đức cao dày Lập am rồi sẽ rước thầy về chung Nghe lời nàng phải chiều lòng Giã sư giã cảnh đều cùng bước đi Một nhà về đến quan nha 3060-đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy Tàng tàng chén cúc dở say Đứng lên Vân mới giãy bày một hai Rằng; trong tác hợp cơ trời Hai bên gặp gỡ một lời kết giao 3065-gặp cơn bình địa ba đào Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em Cũng là phận cải duyên kim Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? Những là rày ước mai ao 3070-Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình Bây giờ gương vỡ lại lành Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi Còn duyên may lại còn người Còn vầng trăng bạc,còn lời nguyền xưa 3075-Quả mai ba bảy đương vừa Đào non sớm liệu xe tơ kịp thời Dứt lời nàng vội gạt đi Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ Một lời tuy có ước xưa 3080-xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều Nói càng hổ thẹn trăm chiều Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi Chàng rằng: nói cũng lạ đời Dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao? 3085-một lời đã trót thâm giao Dưới dày có đất trên cao có trời Dẫu rằng vật đổi sao dời Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh Duyên kia có phụ chi tình 3090-mà toan chia gánh chung tình làm hai? Nàng rằng: gia thất duyên hai Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng Hoa thơm phong nhụy, trăm vòng tròn gương 3095-chữ trinh đáng giá nghìn vàng Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa Thiếp từ ngộ biến đến giờ Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa Bấy chầy gió táp mưa xa 3100-mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn Còn chi là cái hồng nhan Đã xong thân thể còn toan nỗi nào Nghĩ mình chẳng hổ mình sao? Dám đem trần cấu dự vào bố kinh 3105-đã hay chàng nặng vì tình Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru Từ rày khép cửa phòng thu Chẳng tu thì cũng như tu mới là Chàng rằng nghĩ đến tình xa 3110-đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ Nói chi kết tóc xe tơ Đã buồn cả ruột lại dơ cả đời Chàng rằng: khéo nói nên lời Mà trong lẽ phải có người có ta 3115-xưa nay trong đạo đàn bà Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường Có khi biến có khi thường Có quyền nào phải một đường chấp kinh Nếu nàng lấy hiếu làm trinh 3120-bụi nào cho đục được mình ấy vay Trời còn để có hôm nay Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời Hoa tàn mà lại thêm tươi Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa 3125-có điều chi nữa mà ngờ Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu Nghe chàng nói đã đủ điều Hai thân thì cũng quyết theo một bài Hết lời khôn lẽ chối lời 3130-cúi đầu nàng cũng ngắn dài thở than Nhà vừa mở tiệc đoàn viên Hoa soi ngọn đuốc, hồng chen bức là Cùng nhau giao bái một nhà Lễ đà đủ lễ,đôi đà đủ đôi 3135-động phòng dìu dặt chén mồi Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa Những từ sen ngó đào tơ Mười lăm năm mới bây giờ là đây Tình duyên ấy, hợp tan này 3140-bi hoan mấy nỗi,đêm chày trăng cao Canh khuya bức gấm rủ thao Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân Tình nhân gặp lại tình nhân Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình 3145-nàng rằng: phận thiếp đã đành Còn làm chi nữa cái mình bỏ đi Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may Riêng lòng đã thẹn lắm thay 3150-cũng đà mặt dạn mày dày khó coi Những như âu yếm vành ngoài Còn toan mở mặt với người cho qua Lại như những thói người ta Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa 3155-cũng là giở đuốc bày trò Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi Người yêu ta xấu với người Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau Cửa nhà dù tính về sau 3160-thì còn em đó,lọ cầu chị đây Chữ trinh còn một chút này Chàng cầm cho vững, lại giày cho tan Còn nhiều ân ái chan chan Hay vì vầy cánh hoa tàn mà chơi 3165-chàng rằng: gắn bó một lời Bỗng không cá nước, chim trời lỡ nhau Xót người lưu lạc bấy lâu Tưởng thề thốt nặng, cũng đau đớn nhiều Thương nhau sinh tử đã liều 3170-gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình Chừng xuân tơ liễu còn xanh Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân Gương trong chẳng chút bụi trần Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm 3175-bấy lâu đáy bể mò kim Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại họp một nhà Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm Nghe lời sửa áo cài châm 3180-Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng: Thân tàn gạn đục khơi trong Là nhờ quân tử khác lòng người ta Mấy lời tâm phúc ruột rà Tương tri đường ấy mới là tương tri 3185-chở che đùm bọc thiếu gì? Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay Thoắt thôi tay lại cầm tay Càng yêu vì nết càng say vì tình Thêm nến giá,nối hương bình 3190-cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan Tình xưa lai láng khôn hàn Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa Nàng rằng: vì mấy đường tơ Lầm người cho đến bây giờ mới thôi 3195-ăn năn vì sự đã rồi Nể lòng người cũ vàng lời một phen Phím đàn dìu dặt tay tiên Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa Khúc đâu đầm ấm dương hòa 3200-Ấy là hồ điệp ấy là Trang sinh Khúc đâu êm ái xuân tình ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ quyên? Trong sao châu rỏ dành quyên ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông 3205-lọt tai nghe suốt năm cung Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao Chàng rằng: phổ ấy tay nào? Xưa sao sầu thảm,nay sao vui vầy? Tẻ vui bởi tạ lòng này 3210-hay là khổ tận đến ngày cam lai Nàng rằng: vì chút nghề chơi Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu Một phen tri kỷ cùng nhau Cuốn dây từ đấy về sau xin chừa 3215-chuyện trò chưa cạn tóc tơ Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông Tình riêng nàng lại nói sòng Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao Cho hay thục nữ chí cao 3220-phải người sớm mận tối đào như ai Hai tình vẹn vẻ hòa hai Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ Khi chén rượu khi cuộc cờ Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên 3225-ba sinh đã phỉ mười nguyền Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy Nhớ lời lập một am mây Khiến người thân tín rước thầy Giác Duyên Đến nơi đóng cửa cài then 3230-rêu trùm kẽ gạch cỏ len mái nhà Sư đà hái thuốc phương xa Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu? Nặng vì chút nghĩa bấy lâu Trên am cứ giữ hương đầu hôm mai 3235-một nhà phúc lộc gồm hai Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần Thừa gia chẳng hết nàng Vân Một cây cù mộc,một sân quế hòe Phong lưu phú quý ai bì; 3240-vườn xuân một cửa để bia muôn đời Ngẫm hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao 3245-có đâu thiên vị người nào Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần Đã mang lấy nghiệp vào thân 3250-cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài Lời quê chắp nhặt dông dài Mua vui cũng được một vài trống canh. ---------------------HẾT----------------------
Tài liệu đính kèm: