Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Phân tích đoạn thơ đầu trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Phân tích đoạn thơ đầu trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Từ đầu thế kỉ XX đến CM Tháng Tám năm 1945 là một thời kì rất quan trọng trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử văn học nói riêng. Có thể nói thời kì này thơ ca trung đại đã nhường chổ lại cho thơ ca hiện đại và cụ thể là phong trào thơ mới 1930-1945. Tên tuổi một số nhà thơ tiu biểu gắn với giai đoạn này như: Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử và một trong số đó thì Huy Cận được xem là nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới, người đã cống hiến rất nhiều cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ của HC hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Ông là nhà thơ Việt Nam yêu thích thơ Đường, chịu ảnh hưởng của thơ Đường và văn học Pháp. Ở HC có sự kết hợp đẹp đẽ giữa tài năng thơ ca với tấm lòng yêu nước. Trước cm, HC là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới, nổi tiếng với tập Lửa Thiêng; Sau cm, là một cây bút thành công, nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng. Cc tập thơ tiêu biểu đáng kể đến như: Trời Mổi Ngày Lại Sáng, Đất Nở Hoa, Bài Thơ Cuộc Đời, Nhưng trong số đó tác phẩm được xem là tiêu biểu nhất, thành công nhất của HC là “Tràng Giang” đươc viết vào năm 1939 và được in trong tập thơ đầu tay Lửa Thiêng. Tràng Giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước Cm Tháng Tám khi HC cịn l một chng sinh vin của Trường Cao đẳng Canh nông H Nội, HC thường có thú vui vào buổi chiều chủ nhật hằng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho HC nhiều cảm xúc và tứ thơ Tràng Giang ra đời từ đây. Bài thơ đã được sáng tác và hoàn thành sau 13 lần sửa bản thảo. Ban đầu bài thơ có tên là Chiều Trên Sông, một nhan đề gắn liền với bút pháp tả chân khách thể tự nhiên, tức là nhà thơ miêu tả những hình ảnh cụ thể và ít gây ấn tượng. Về sau tác giả đổi lại thành Tràng Giang, nhan đề Tràng Giang hay hơn nhiều hay ở chổ l gợi ra ấn tượng khái quát vừa trang trọng vừa cổ điển. Tràng Giang chứ không phải là Trường Giang nó gợi cho ta hình ảnh một con sông không nhửng dài m cịn rộng khơng những cao m con su, mặt khác độ âm vang của cách láy vần “ang” còn tạo cho nó một cái gì đó vô tận, lan tỏa, ngân dài ngân dài ra mãi. Tràng Giang là cách diển đạt mới trong khi Trường Giang dễ bị nhằm lẫn với tên một con sông ở Trung Quốc thời Thịnh Đường.Tràng Giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn, về tình yêu quê hương đất nước Và như Xuân Diệu đ nói bài thơ Tràng Giang là bài thơ dọn đường cho lòng yêu giang sơn, đất nước.

 

doc 6 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 2080Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Phân tích đoạn thơ đầu trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích đoạn thơ đầu trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận:
“ Sĩng gợn tràng giang buồn điệp điệp
 Con thuyền xuơi mái nước song song
 Thuyền về nước lại, sầu trăm ngã
 Cuổi một cành khơ lạc mấy dịng.”
Bài Làm
 Từ đầu thế kỉ XX đến CM Tháng Tám năm 1945 là một thời kì rất quan trọng trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử văn học nói riêng. Có thể nói thời kì này thơ ca trung đại đã nhường chổ lại cho thơ ca hiện đại và cụ thể là phong trào thơ mới 1930-1945. Tên tuổi một số nhà thơ tiêu biểu gắn với giai đoạn này như: Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử và một trong số đó thì Huy Cận được xem là nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới, người đã cống hiến rất nhiều cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ của HC hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Ông là nhà thơ Việt Nam yêu thích thơ Đường, chịu ảnh hưởng của thơ Đường và văn học Pháp. Ở HC có sự kết hợp đẹp đẽ giữa tài năng thơ ca với tấm lòng yêu nước. Trước cm, HC là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới, nổi tiếng với tập Lửa Thiêng; Sau cm, là một cây bút thành công, nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng. Các tập thơ tiêu biểu đáng kể đến như: Trời Mổi Ngày Lại Sáng, Đất Nở Hoa, Bài Thơ Cuộc Đời,Nhưng trong số đó tác phẩm được xem là tiêu biểu nhất, thành công nhất của HC là “Tràng Giang” đươc viết vào năm 1939 và được in trong tập thơ đầu tay Lửa Thiêng. Tràng Giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước Cm Tháng Tám khi HC cịn là một chàng sinh viên của Trường Cao đẳng Canh nơng Hà Nội, HC thường có thú vui vào buổi chiều chủ nhật hằng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho HC nhiều cảm xúc và tứ thơ Tràng Giang ra đời từ đây. Bài thơ đã được sáng tác và hoàn thành sau 13 lần sửa bản thảo. Ban đầu bài thơ có tên là Chiều Trên Sông, một nhan đề gắn liền với bút pháp tả chân khách thể tự nhiên, tức là nhà thơ miêu tả những hình ảnh cụ thể và ít gây ấn tượng. Về sau tác giả đổi lại thành Tràng Giang, nhan đề Tràng Giang hay hơn nhiều hay ở chổ là gợi ra ấn tượng khái quát vừa trang trọng vừa cổ điển. Tràng Giang chứ không phải là Trường Giang nó gợi cho ta hình ảnh một con sông không nhửng dài mà cịn rộng khơng những cao mà con sâu, mặt khác độ âm vang của cách láy vần “ang” còn tạo cho nó một cái gì đó vô tận, lan tỏa, ngân dài ngân dài ra mãi. Tràng Giang là cách diển đạt mới trong khi Trường Giang dễ bị nhằm lẫn với tên một con sông ở Trung Quốc thời Thịnh Đường.Tràng Giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn, về tình yêu quê hương đất nướcVà như Xuân Diệu đã nói bài thơ Tràng Giang là bài thơ dọn đường cho lòng yêu giang sơn, đất nước.
 Thật vậy Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của HC mà còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới; bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước. Nhưng đúng hơn, đây là bài thơ thể hiện nổi buồn cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang là tạo vật thiên nhiên phổ quát. Cảm hứng bài thơ là cảm hứng không gian. Không gian được trải rộng từ mặt sông lên chót vót đỉnh trời, mở ra từ thẳm sâu vũ trụ đến thăm thẳm tâm linh con người. Thế giới được nhìn từ sự chiêm nghiệm cổ điển vừa cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của cái tôi hiện đại, rất đặc trưng cho thơ mới. Tràng Giang hiện ra như bức tranh tạo vật lớn lao, hoang sơ và cổ kính, trong đó thi sĩ là một kẻ lữ thứ cô độc, lac loài. Một không gian mênh mông, vô biên. Cái nhan đề bài thơ mở cửa vào vô định, một dòng sông chảy mênh mang giữa đất trời. Câu đề từ đã vén lên bức rèm của cảm xúc của nội dung đặc sắc ở bài thơ. Chất thơ sông nước đã nhập vào để phô bày vẻ đẹp thơ: 
“ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài “
Câu thơ có nhiều từ gợi lên không gian buồn vô tận: trời rộng, sông dài tạo nênø không gian mênh mông, vô biên, và bất tận, cịn bâng khuâng, nhớ là hai tính từ để chỉ tâm trạng buồn, cô đơn. Câu thơ gợi lên một nổi buồn mênh mang lan tỏa đến mọi góc cạnh của không gian. Đối diện cái vô thủy, vô chung của thời gian và với cái vô cùng, vô tận của không gian, con người cảm nhận một cách thấm thía nổi cô đơn, sự nhỏ nhoi của chính mình; cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa cái không gian bao la ấy. Đó là nổi niềm của cái tôi nhà thơ. Lời đề từ vừa tô đậm thêm cảm giác Tràng Giang,vừa thâu tóm cảm xúc chủ đạo, vừa tạo ra nét âm nhạc cho cả bài thơ. Cảm xúc trong lời đề từ được tạo ra để báo trước cảm xúc nổi trội của thi nhân trong suốt bài thơ. Đó là mạch cảm xúc bắt nguồn từ bức tranh thiên nhiên như hòa vào lòng người tạo ra. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đươc diển tả bằng một hệ thống hình ảnh sinh động với những cảm giác tinh vi, phong phú. Tuy nhiên, có thể thấy hình ảnh trong bài thơ được tạo thành từ hai yếu tố chủ yếu là mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tảø dòng trôi, câu thứ ba tả con thuyền xuơi mái và đặc biệt là câu thứ tư tả một cành củi khơ, không gian mở ra chiều rộng, vươn tới chiều dài:
 “ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Cĩ thể nĩi câu thơ chỉ vỏn vẹn bảy từ mà nĩi lên ý nghĩa sâu sắc vơ cùng, trong đĩ ba từ “sĩng, gợn, buồn” là ba từ loại khác nhau để chỉ ba phương thức khác nhau, danh từ định danh “con sĩng”, động từ chỉ hành động “gợn”, tính từ “buồn” chỉ tâm trạng. 
Cịn với “ tràng giang, điệp điệp” hai từ này hay ở chổ là cách láy âm nhằm để diễn tả tâm trạng buồn, mà trước hết là tâm trạng buồn của con sĩng theo nhiều gĩc độ khác nhau con sĩng nĩ nhiều lần, nhiều tầng và nhiều lớp rong ruổi nĩi đuơi nhau lan xa ra mãi. Theo bản chất thì “tràng giang” là từ mang âm hưởng cộng hưởng của từ Hán Việt ( giang-sơng; trường-dài) do đĩ tràng giang khơng những gợi chiều dài khơng những gợi chiều sâu mà cả chiều cao nghĩa là nĩ tạo nên khơng gian đa chiều mênh mong rộng lớn, vậy cái hiện tượng buồn của con sĩng này nĩ lan tỏa theo nhiều cấp độ khác nhau như thế cho nên tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng buồn như tâm trạng của con sĩng. Tuy nhiên mặc dù trong câu này nhà thơ khơng hề sử dụng liên từ so sánh nhưng trong ý tưởng thơ chính là phương thức ẩn dụ so sánh và từ câu thơ thứ nhất tâm trạng buồn của HC chỉ bất đẩu từ con sĩng, khơng chỉ ngẫu nhiên mà HC miêu tả tâm trạng của mình bằng hình ảnh con sĩng nhưng thực tế mà nĩi đĩ cũng là một lí do trong sâu thẳm tâm trạng của nhà thơ cĩ một cái gì đĩ rung động cĩ gì đĩ bồi hồi sẵn, cĩ cái gì đĩ bâng khuâng lưu luyến,một cảm xúc khĩ tả mà khơng thể lí giải được khi con người ta rung cảm lúc đứng trước biển đứng trước sĩng thì nhà thơ mượn con sĩng để lí giải. Con sĩng và dịng sơng chỉ là cái cớ để nhà thơ giải bài tâm trạng mà thơi..nếu như Xuân Diệu rợn ngợp trước thời gian thì HC rợn ngợp trước khơng gian. Rõ ràng ta thấy mõi người đều chọn cho mình một cái cớ nhưng đều giống nhau ở chổ cùng thể hiện tâm trạng cơ đơn buồn chán trước thực tại. Ở đây tầm của nhà thơ khơng chỉ dừng lại ở hình ảnh con song mà nhà thơ cịn phĩng tầm mắt của mình qua nhiều sự vật khác đang cùng tồn tại trên dịng sơng. Con sĩng khơng phải đang tồn tại đơn lẽ trên một dịng sơng, mà song song với nĩ cịn cĩ các sự vật khác như hình ảnh con thuyền xuơi mái:
“ Con thuyền xuơi mái nước song song”
Câu thơ này chỉ sự thuận theo tự nhiên của sự vật nhưng dường như cịn nĩi lên sự vơ tình của khơng gian, của thời gian, sự vơ tình của tạo vật. Con người đang cĩ cái tình phiến diện nên con người buồn do đĩ câu thơ thứ hai thực tế chỉ làm cơ sở để miêu tả cho câu thơ thứ ba. Vậy thì với hình ảnh con thuyền xuơi mái trong câu thơ cho ta cảm nhận được rằng thanh điệu, cấu trúc thơ đã tạo cho khổ thơ một âm điệu, tiết tấu nhịp nhàng, chậm rãi, trầm buồn. Trong thanh điệu câu thơ sử dụng nhiều thanh bằng gợi lên sự đều đặn, bằng phằng, khơng cĩ một sự bất trắc nhưng sự đều đặn, bằng phẳng đĩ nĩ lại tạo cho ta một cái gì đĩ nhàm chán, con thuyền tuân theo tự nhiên xuơi theo dịng nước lững lờ theo dịng nước nghĩa là phĩ mặt cho dịng nước trơi tới đâu thì con thuyền trơi tới đĩ,cũng như con người xuơi theo số phận, xuơi theo dịng đời cay nghiệt.
Trong hai câu đầu nếu để ý kĩ lưỡng thì chúng ta đã thấy cĩ gì đĩ phản phất nhạc và tứ thơ của Đỗ Phủ ở đây cho nĩ mang một chút gì đĩ Đường thi:
“ Vơ biên lạc một tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”
“ Khĩm cúc tuơn theo dịng lệ cũ
Con thuyền buộc chặc mối tình nhà”
Rỏ ràng trong cách nhìn của HC cịn chứa đựng nhiều yếu tố khác, nhưng các yếu tố đĩ cùng theo một phương thức thống nhất. Khơng phải ngẫu nhiên mà nhà văn Thạch Lam lại miêu tả nhịp sống ở phố huyện trong tác phẩm “Hai Đứa Trẻ” nĩ đều đặn, buồn tẽ, nhàm chán mặc dù đĩ là đời sống thật của người nơng dân Việt Nam trước Cm Tháng Tám, khơng phải đơn thuần mà nhà Xuân Diệu đã thốt lên rằng:
“ Thà một phút huy hồng rồi chợt tắt
 Con hơn buồn le lối suốt trăm năm ”
Đây chính là sự bế tắc của nhà văn, nhà thơ nghĩa là cuộc sống của nhà văn, nhà thơ nĩi riêng của thế hệ thơ mới nĩi chung thì rất nhàm chán, đơn điệu, khơng biết phải về đâu khơng biết phải làm gì... Do đĩ bản thân họ sống như thế nào, họ rẽ về phương nào thì chính bản thân họ cũng khơng biết được thì làm sao để những người bạn đọc như chúng ta hiểu hết được mà cũng đã từng ít nhất một lần HC thốt lên rằng :
“ Bâng khuâng đứng giữa hai dịng nước
 Là chọn một dịng hay để nước trơi”
Nghĩa là chọn cho mình một con đường để đi hay phĩ mặt cho sự mai rũi của cuộc đời mà đĩ là định mệnh. Vậy thì tâm trạng của tác giả xuất phát từ cách nhìn con thuyền, con sĩng trơi trên sơng, tạo vật Hình ảnh con thuyền xuơi mái nước song song, song song ở đây nếu chúng ta hiểu theo cách nĩi đơn thuần thì sẽ cĩ hai trường hợp xảy ra nhưng cĩ lẽ song song ở đây thì khơng hẳn như thế, song song ở đây nĩ làm nền cho yếu tố thứ ba:
“ Thuyền về nước lại, sầu trăm ngã;”
Thế thì song song ở đây là theo cái nghịch chiều chứ khơng phải là cái thuận chiều, vậy ta dể dàng bắt gặp nghệ thuật đối đã được sử dụng trong câu này. “Thuyền về nước lại” thật ra nước nĩ đẩy thuyền đi chứ khơng phải là cái gì đĩ là cái lớn lao nhưng nhà thơ nhìn trong bút tích của mình thì đĩ là sự chia lìa đơi ngã, là cảm giác chia li, cảm giác đau đớn, thất vọng và tất cả các cảm giác gơm lại cơ đọng lại đúng một từ là “sầu”, sầu theo cấp số nhân chứ khơng đơn thuần là theo cấp số cộng. Nhà thơ mở lịng mình ra với thiên nhiên, mong ước đươc giao cảm với đời đổi lại đĩ cái mà cảnh vật đem lại cho nhà thơ chính là sự hiu quạnh, vắng lặng và tẻ nhạt và cuối cùng cái nhà thơ nhận được cũng chính là cái buồn muơn thuở.
Hình ảnh con sĩng cũng là yếu tố khơi gợi nổi buồn tâm trạng nhưng đồng thời cịn yếu tố sự vật khác nĩ cũng vừa gợi lên cái gì cổ điển nhưng cũng gợi lên một cái gì đĩ rất là đời thường. Nếu bổ sung cho chi tiết cổ điển của hình ảnh bến sơng, con sĩng, con thuyền..đĩ chính là sự vận động của cành củi ở trên sơng:
“ Củi một cành khơ lạc mấy dịng”
Ngay khi ta đọc lên câu thơ ta dễ dàng thấy được nghệ thuật đão và đối đả được sử dụng ở đây, và xâu hơn thế nữa là bản chất của câu hỏi tu từ, của phương thức ẩn dụ. Thế thì với tất cả các nghệ thuật đĩ đã nhằm thể hiện điều gì trong tâm trạng của nhà thơ, và nĩi lên được ẩn ý gì của nội dung bài thơ? Quả thật cách viết củi một cành khơ nĩ gây cho ta ấn tượng đậm hơn, mạnh hơn một cành củi khơ, nĩ nhằm nhấn mạnh lên tính chất chứ khơng phải là bản chất của sự vật. Khi đọc câu thơ chúng ta cĩ tự hỏi tại sao HC lại chọn tính từ “khơ” để nĩi lên tính chất của sự vật mà khơng phải là những ngơn từ khác cụ thể như là từ kia hay từ xanh mà đặc biệt là từ khơ. Vậy từ khơ nĩ gợi lên cho ta điều gì? Thật vậy “ khơ” là một tính từ gợị lên sự héo úa dần về tính chất của cành củi, nĩ buơng xuơi theo dịng nước để rồi tàn phai dần theo năm tháng, nĩ chấp nhận định mệnh nghiệt ngã của tạo hĩa ban cho. Nĩ củng là hình ảnh tượng trưng của kiếp người lạc lõng, cơ đơn và vơ định mà với cách sử dụng động từ “lạc” trong câu của HC nĩ đã bao hàm tất cả trong đĩ.” Mấy dịng” một ngơn từ mà khi chúng ta thốt ơi sau mà nghe đau đớn quá, dường như sự vật ở đây trở nên vơ định, nĩ khơng biết phải trơi về đâu và cuối cùng là dừng lại nơi nao, và dường như nĩ đã buơng xuơi theo dịng nước cũng như con người ta buơng xuơi theo dịng đời. Bốn câu thơ chứa đựng sự vật theo mối quan hệ số ít nghĩa là con số rất nhỏ nếu chúng ta khơng muốn rằng đĩ là con số một mặc dù trong bốn câu thơ này nĩ điều nĩi lên đúng một con số một mà thơi. Rõ ràng nếu chúng khảo sát hết khổ thơ dường như sự vật nĩ chỉ tồn tại cĩ một vậy thì cĩ phải là trùng khớp với tâm trạng vừa là sự vơ tình hay hữu ý gì đĩ của nhà thơ mà nhà thơ vẽ lên trước mắt chùng ta một bức tranh về hình ảnh một con người với một tâm trạng tha hương lữ thứ uể bước cơ đơn đang một mình đứng trước dịng sơng đứng trước con sĩng đứng trước con thuyền và đứng trước cành củi khơ để bọc lộ tâm trạng của mình đối với quê hương đối với đất nước đĩ tâm tâm sự thời thế tâm sự yêu nước thầm kín. Khổ thơ vẽ lên cảnh sơng nước bao la, vơ định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngã, lạc mấy dịng khơng hứa hẹn điều hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời; nhỏ nhoi và bất lực là hình ảnh con thuyền và cành củi khơ cùng trơi trên dịng sơng. Tất cà đều ngấm vị buồn sầu nổi sầu khơng gian. Đĩ là vẻ đẹp cổ điển của bài thơ. Vẽ đẹp hiện đại là ở những hình ảnh chi tiết hiện thực: cành củi khơ quen thuộc, là sự khơng gắn bĩ, cảm giác chia lìa của tâm hồn nhà thơ khi ngắm cảnh vĩnh hằng. Hình ảnh cảnh củi nĩ dể dàng tạo nên một nhạy cảm một sự rung cảm đối với người đọc vì đĩ là quan sát rất là tinh tế của tác giả và chính sự tinh tế đĩ nĩ gợi lên một nét nghĩa vừa thực vừa tượng trưng. Thực ở chổ nĩ miêu tả số phận lạc lồi lênh đênh vơ tận mất phương hướng lạc lõng của cành củi khơ u uất giữa cái dịng sơng mênh mong rộng lớn hay cũng chính là thân phận lạc lồi, cơ đơn bơ vơ của con người trước dịng đời trước cuộc sống này vậy nhằm hiểu ra khơng là một cành củi khơ mà là rất nhiều cành củi khơ khơng phải là tâm trạng cơ đơn bất mãn của một HC mà là rất nhiều nhà thơ mới chính là nỗi buồn của thế hệ. Mà Trang giang của HC là một trong những nét tiêu biểu để miêu tả nỗi buồn đĩ. Thiên nhiên cĩ nhiêì vẽ đẹp: chĩi chang, rực rỡ, yên ả vắng lặng, mong manh đơn cơi khi về chiều. Bản thân cái buồn, vẽ đẹp của cái buồn trong cảnh thiên nhiên kà hấp dẫn kì thú với con người, nhất là những con người nhạy cảm trước cái đẹp. Ai đĩ khơng nhận ra vẽ đẹp của chiều buồn, cái dợn dợn của sĩng dâng, cái mong manh của cành củi khơ thì chưa chắc đã cãm thơng với những kiếp người trơi dạt, bấp bênh. Đĩ chính là tâm trạng buồn phổ biến trong tất cả các nhà thơ mới lãng mạng trước CM. Nhưng tại sao các nhà thơ mới lại buồn, thích buồn đến thế? Đĩ là cài buồn thời đại. Thời đại mà tuổi trẽ vừa lớn lên đã dự cảm tương lai, hạnh phúc chân chính, tất cả chỉ là mọng mị, hư ảo. Đất nước nơ lệ, nhân dân quần quại trong đau thương tâm tồi, làm sao những người thanh niên tâm huyết với đời lại khơng buồn đau? 
“ Với tơi tất cả là vơ nghĩa
 Tất cả khơng ngồi nghĩa khổ đau” ( Chế Lan viên).
Đây là cái buồn đẹp cái buồn chưa héo khơ, lạnh nhạt thờ ơ, phĩ mặc trước cuộc đời. Vì thế Xuân Diệu đánh giá rằng Tràng Giang của HC dọn đường cho lịng yêu giang sơn, đất nước. Vậy với mỗi phương diện khác nhau của các nhà thơ đã tạo nên một bản nhạc hịa tấu muơn màu mang đầy âm hưỡng thơ mới.
 Tĩm lại, Tràng Giang là sự đối lập, tương phản giữa thiên nhiên, khơng gian vũ trụ mênh mơng với sự sống nhỏ bé, đơn chiếc, lạc lõng và mong manh. Tâm trạng cơ đơn, nỗi buồn vơ tận trước cuộc đời, vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hoa nhập giữa những con người và tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Bài thơ vừa mang vẽ đẹp cổ điển và vừa đậm chất hiện đại. Vẽ đep cổ điển thể hiện ở chổ là thể thơ thất ngơn, bốn khổ như bức tứ bình tả cảnh ngụ tình; sử dụng nhiều từ Hán Việt, nhiều thi liệu truyền thống;
Mang dáng dấp Đường thi ở sự hàm súc, cơ đọng, tao nhã, cao sâu, khái quát; hình ảnh ước lệ, tượng trưng. Cịn cái chất thơ hiện đại thể hiện ở chổ là nổi buồn sầu cơ đơn nhưng lại bâng khuâng man mác-nỗi buồn thời đại; cảnh vật gần gũi thân thuộc; trực tiếp thể hiện cái tơi cơ đơn trước vũ trụ, lịng yêu quê hương đất nước thầm kín, tha thiết; hình ảnh gần gũi và chân thực. Thế giới của bài thơ là thế giới quen thuộc củ làng quê việt. Tình cảm tác giả gần gũi, thân thuộc với cảnh quê hương đất nước. Thân thuộc đến độ nhảy cảm, tinh tế, am hiểu tinh tường tường từng cơn sĩng nhỏ, từng cánh chim chiều...thân thuộc như một tình cảm thường trực tiềm ẩn trong đáy lịng mình mà khơng khĩi hồng hơn cũng nhớ nhà
Ngơn từ thơ của HC vơ cùng nhạy bén và sâu sắc nhà thơ mượn những yếu tố của thơ xưa thường miêu tả nhưng lại sáng tạo đưa vào trong thơ của mình những chi tiết rất đời thường rất cuộc sống mà chỉ cần nhắc đến chi tiết đĩ thì trong tậm trạng mọi người gợi lên một cái gì đĩ xĩt xa, nao lịng và nhớ quê da diết. Mà mỗi khi chúng ta nhắc đến HC và đọc đến thơ của HC thì cái đọng lại cuối cùng trong lịng cũa mõi chúng ta là nỗi buồn vơ tận và nỗi sầu ảo não. Huy cận cĩ lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luơn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng, lặng lẽ của thế giới bên trong. HC đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não...Tràng Giang là một trong những bài thơ thành cơng đặc sắc, rất HC. Với nét bút châm phá, thần tình tạo vật, đơi lời tâm sự nhẹ nhàng, đã cĩ khả năng đối thoại thấm thía với người đọc về lẽ nhân sinh mang tính lương và chất thiện. Ma lực của Tràng Giang là thơng qua hệ thống ba ngơn từ làm rung động những dây cảm xúc từ đáy con người. “Cĩ người bảo thơ HC già. Già vì buồn, già vì hay kể lể chuyện xưa. Nhưng trong đời người ta, co tuổi nào hay buồn hơn tuổi hai mươi. Cịn cĩ tuổi nào hay vẩn vơ hơn?...Vũ trụ bao la quá, lịng chàng lạnh giá quá, chàng muốn quên mình quên hết thảy trong tình yêu...Tơi đã đọc bài thơ baao nhiêu lần và khơng sao xĩa được cái cảm giác bâng quơ: mình là cành củi khơ trên dịng tràng giang hay mình là cánh chim nhỏ lạc dưới lớp mây cao đang đùn đùn núi bạc. Đĩ là cảm tưỡng của một đáu trẻ hay người già? Bởi vì Tràng Giang là một dịng sơng mà cũng là dịng đời chăng?

Tài liệu đính kèm:

  • docPhan Tich Doan Tho Trong Bai Tho Trang Giang.doc