Giáo án môn Ngữ văn 11 - Tập làm văn: Cảm nhận bài thơ Tràng giang – Huy Cận

Giáo án môn Ngữ văn 11 - Tập làm văn: Cảm nhận bài thơ Tràng giang – Huy Cận

I. Mở bài

Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Những rung cảm mãnh liệt và tinh tế của hồn thơ Huy Cận trước không gian trời rộng sông dài lúc chiều tà đã hoá thân thành bài thơ “Tràng giang” độc đáo – “một bài thơ đã đạt đến trình độ cổ điển của một hồn thơ mới”(Xuân Diệu). Bài thơ có một nhan đề và một lời để từ giàu ý nghĩa đồng thời bộc lộ những cảm nhận đặc biệt tinh tế trước thiên nhiên ngay từ khổ thơ đầu.

II.Thân bài

1/ Xuất xứ

“Tràng giang” là bài thơ đặc sắc nhất trong tập “Lửa thiêng” (1940) của Huy Cận. Đó là một bài thơ được sống Hồng gợi tứ, là những rung động của nhà thơ trước thiên nhiên sông nước bao la vô tận nơi bến phà, chèm trong buổi chiều tà.

 

doc 39 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 3482Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn 11 - Tập làm văn: Cảm nhận bài thơ Tràng giang – Huy Cận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI LIỆU TẬP LÀM VĂN :
TRÀNG GIANG
**********
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
TRÀNG GIANG
CẢM NHẬN BÀI THƠ TRÀNG GIANG – HUY CẬN
I. Mở bài
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Những rung cảm mãnh liệt và tinh tế của hồn thơ Huy Cận trước không gian trời rộng sông dài lúc chiều tà đã hoá thân thành bài thơ “Tràng giang” độc đáo – “một bài thơ đã đạt đến trình độ cổ điển của một hồn thơ mới”(Xuân Diệu). Bài thơ có một nhan đề và một lời để từ giàu ý nghĩa đồng thời bộc lộ những cảm nhận đặc biệt tinh tế trước thiên nhiên ngay từ khổ thơ đầu.
II.Thân bài
1/ Xuất xứ 
“Tràng giang” là bài thơ đặc sắc nhất trong tập “Lửa thiêng” (1940) của Huy Cận. Đó là một bài thơ được sống Hồng gợi tứ, là những rung động của nhà thơ trước thiên nhiên sông nước bao la vô tận nơi bến phà, chèm trong buổi chiều tà.
2/ Giải thích ý nghĩa nhan đề
Nhan đề của các tác phẩm văn học nhiều khi bao quát được những nội dung tư tưởng chủ đạo, những hình tượng nổi bật của nhà thơ. Huy Cận cũng đã chọn cho thi phẩm của mình một nhan đề rất thích đáng. “Tràng giang” cũng chính là ‘trường giang” có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết “trường giang” mà viết “tràng giang” tạo nên phép điệp âm “ang”, một âm mở, và nhờ vậy còn gợi lên hình ảnh một con sông lớn, sông rộng. “Tràng giang” lại là một từ Hán Việt cổ điển nên cũng kín đáo gợi hình ảnh con sông cổ kính lâu đời ( dòng “tràng giang” vì vậy không chỉ có chiều dài rộng địa lí mà còn có chiều sâu của thời gian, của lịch sử. đó là con sông như đã chảy từ ngàn xưa, đã trầm tích vào trong mình chiều sâu của hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hoá, và dường như đã chảy qua bao áng cổ thi:
“Duy kiến Trường giang thiên tế lưu”
(Lý Bạch)
(Dòng tràng giang chảy ngang qua bầu trời)
(Con sông vì vậy trở nên dài hơn rộng hơn mênh mang hơn xa xôi vĩnh viễn hơn trong tâm tưởng của người đọc. Nhan đề “tràng giang” vì vậy đã gợi lên một hiện tượng không gian độc đáo, không gian lớn lao có tầm vũ trụ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
3/ ý nghĩa của nhan đề càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Câu thơ được rút trong bài thơ “nhớ hờ’ từ tập lửa thiêng. Các hình ảnh “trời rộng sông dài” gợi những phạm vi không gian khác nhau từ cao đến thấp; xa đến gần một không gian lớn lao mênh mang có tầm vũ trụ. Hình tượng không gian này còn trở lại nhiều lần trong bài thơ “Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Nếu ‘bâng khuâng” là cảm giác xao xuyến trống trải của con người khi đối diện trước không gian mênh mông rộng lớn thì “nhớ” lại là niềm hoài niệm của con người về điều gì đó đã khuất xa trong thời gian trong không gian. Cả dòng thơ đã bộc lộ thành thực nỗi niệm tâm trạng con người khi đối diện trước thời gian, không gian, bộc lộ nỗi khắc khoải không gian của hồn thơ Huy Cận : “Huy Cận dường như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” (Xuân Diệu)
4)Bình giảng
“Tràng giang” mở ra bằng hiện tượng dòng sông mặt nước. Bản thân từ tràng giang đã gợi một không gian dài rộng mênh mông có phần cổ kính một không gian lớn lao mang tầm vũ trụ. Hình ảnh “sóng gợn Tràng giang “gợi sự vận động hết sức nhỏ bé nhẹ nhàng của sóng và vì vậy càng làm nổi bật cái mênh mang cái tĩnh lặng vô cùng của nền cảnh Tràng giang. Huy Cận đã khéo léo sử dụng thủ pháp dùng động nói tĩnh; dùng cái nhỏ bé diễn tả cái lớn lao vốn rất phổ biến trong thơ xưa. Dòng thơ đầu có khi được hiểu như một hình ảnh so sánh giữa cảnh “sóng gợn Tràng giang” triền miên vô hạn với nỗi buồn điệp điệp của lòng người. Nó kín đáo gợi nhớ một câu ca dao cổ:
“Qua cầu ngả nón trông cầu
Sóng bao nhiều gợn, dạ em sầu bấy nhiêu”
Nhưng có lẽ ở dòng thơ của Huy Cận bốn chữ đầu tả cảnh của mình trước sau tả tình nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi lòng của mình trước cảnh Tràng giang sóng gợn. Cặp từ láy “điệp điệp” vừa khiến nỗi buồn trở nên cụ thể hơn vừa làm cho nó như chồng chất lên nhau nối tiếp nhau không dứt. Nỗi buồn này chưa qua nỗi buồn khác đã vỗ về. Đó là một nỗi buồn triền miên vô hạn như chính sóng nước Tràng giang. Có thể nói ngay dòng thơ đầu Huy Cận đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng của mình khi đối diện trước cảnh vật, trước không gian.
Trên nền Tràng giang nổi bật lên hình ảnh con thuyền đơn độc lẻ loi. Hình ảnh con thuyền xuôi mái có khi được hiểu là con thuyền xuôi mái chèo mát mái lướt đi ung dung thanh thản trước Tràng giang. Nhưng có lẽ hiểu là hình ảnh con thuyền buông xuôi mái chèo bởi như thế sẽ hợp hơn với một dòng Tràng giang toàn những “củi trôi, bèo dạt” toàn những vận động vô hướng vô định. Có người hiểu “nước song song” là hình ảnh có ý nghĩa đối thanh đối ý với “buồn điệp điệp” ở dòng trên, có người lại cảm nhận đó là hai vệt nước vẽ ra từ đuôi con thuyền xuôi mái. Nhưng có lẽ cả dòng thơ này diễn tả thế song song sóng đôi hài hoà giữa thuyền và nước; diễn tả mối quan hệ vững bền muôn thuở của thiên nhiên.
Đến dòng thơ sau thế cân bằng mỏng manh giữa thuyền và nước: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. dòng thơ có khi được ngắt nhịp 2/5 và có khi được hiểu là mối sầu của nước khi thuyền về. Nhưng trong tương quan nội tại của lời thơ, cách ngắt nhịp 2/2/3 tỏ ra hợp lí hơn và “sầu trăm ngả” là mối sầu của lòng người. Lời thơ khéo léo sử dụng phép tiểu đối : “Thuyền về – nước lại” diễn tả sự chia ly giữa thuyền và nước. Hai động từ trái hướng: “về – lại” như đã xé thuyền và nước đã tồn tại rất mong manh, đã lùi vào quá khứ, “thuyền – nước” vốn là những thực thể không thể tách rời nhau nên sóng đôi thì hài hoà tách xa là có nỗi niềm mà chia ly là nghịch cảnh (Huy Cận đã đã cảm nhận sự chia ly giữa “thuyền – nước “ như một điều trái quy luật tự nhiên. Cách cảm nhận ấy như khiến cho nỗi buồn trở nên thấm thía sâu sắc hơn, và nỗi buồn ‘điệp điệp” ở trên đã trở thành mối sầu trăm ngả”. Huy Cận là người thường hiện thực hoá những tâm tư tình cảm của con người trong những phạm vi không gian. Mối sầu vốn vô hình không thể cảm nhận bằng mắt thường nhưng khi được đặt trong không gian “trăm ngả” bỗng trở nên cụ thể có tầm vóc lớn lao, cả mối sầu nơi lòng người cũng như đang lan toả khắp không gian, như cũng đang vỗ sóng trên mặt thế gian. Đó cũng là mối sầu vô hướng, vô định, là nỗi niềm của con người trước sông nước mênh mang.
Thơ là sự chọn lựa ngôn từ hết sức cầu kỳ hàm xúc. Bao nhiêu người cầm bút đã từng tâm niệm lời dạy của thi thánh Đỗ Phủ:
“Tự bất kinh nhân tử bất hưu”
(Một chữ mà chưa làm cho người ta kinh sợ thì chết chưa yên)
Trước khi đặt bút viết dòng thơ cuối Huy Cận đã trải qua nhiều trăn trở, tìm tòi. Ông từng thử bút bằng dòng thơ:
“Gỗ lại rừng xa cuộn xiết dòng”
rồi sửa bằng :”Củi một cành khô đã lạc dòng”
nhưng không có hình ảnh nào gợi tả bằng dòng thơ: “Củi một – dòng” hình ảnh “củi một cành khô” gợi cái đơn côi lẻ loi, khô héo nhỏ bé phù du, còn hình ảnh “mấy dòng” lại gợi một không gian lớn lao mênh mang trải ra nhiều hướng. Thủ pháp tương phản trong dòng thơ cùng với động từ “lạc” như muốn xé cành củi khô về nhiều hướng: “Cành củi” ấy trở nên vô cùng tội nghiệp nhỏ nhoi, qua những vận động vô hướng vô định của mình. Dòng thơ như kín đáo gợilên những liên tưởng về thân phận bèo bọt của con người giữa dòng đời vô tận. Lời thơ sử dụng rất nhiều thủ pháp tương phản một thủ pháp vốn rất đặc trưng cho cảm hứng lãng mạn. Thiên nhiên trong khổ thơ có vận động nhưng là vận động vào sự lưu lạc; chia lìa. Nó là một cảnh buồn vắng mà chỉ tâm hồn chất chứa mối sầu như Huy Cận mới có thể nhận ra.
III.Kết bài
Cả khổ thơ là những cảm nhận đặc biệt tinh tế trước thiên nhiên đầy những lưu lạc ; những vận động vô hướng vô định, những nỗi niềm những mối sầu vô hồi vô hạn như chính sóng Tràng giang. Huy Cận qua khổ thơ đó đã phác hoạ ra những cảnh đầu tiên cho bức tranh Tràng giang vừa cổ điển mẫu mực, vừa độc đáo mới mẻ của mình.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ TRÀNG GIANG – HUY CẬN
Tràng giang
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Huy Cận
Tràng giang khơi nguồn từ cảm hứng không gian: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nhớ không gian là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm Lửa thiêng. Nhớ làm cho trời đất phân ly, giữa trời rộng và sông dài trở thành hai mảng không gian viễn cách. Huy Cận đã mô hình hóa vũ trụ dưới cái nhìn mới của con người hiện đại:
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Trong cái ranh giới giữa ngày và đêm, giữa sáng và tối xuất hiện các chiều đối nghịch của không gian: mặt trời lặn xuống để ánh sáng hắt lên, trời vừa thấp vừa cao thành sâu chót vót; sông dài để đường biên của chân trời thêm rộng, bến bờ mất hút, điểm hẹn của bao cuộc gặp gỡ trở thành hoang vắng, cô liêu. Không gian giãn cách ở mọi chiều kích của nó đã phá vỡ cái mô hình vũ trụ Thiên - Địa - Nhân trong quan niệm của con người thời cổ. Con người không còn ở cái tư thế đầu đội trời chân đạp đất nữa mà trở thành một tinh cầu giá lạnh chơi vơi giữa cõi hư vô.
Tràng giang không còn là bức tranh thiên nhiên để con người hòa nhập cùng trời đất nữa mà trở thành dòng đời với bao xao động trong cái ranh giới nhập nhòa giữa cũ và mới. Cuộc sống cũ đi qua, cuộc sống mới đang hình thành, "cái tôi" chơi vơi giữa biển đời đầy biến động. Những xao động của ngoại cảnh đều chuyển hóa thành những xao động của tâm hồn, "cái tôi" thu nhận vào trong lòng mình mọi âm vang của vũ trụ. Con sóng gợn li ti cộng hưởng thành nỗi buồn điệp điệp, con thuyền xuôi mái với nước song song nhân lên thành nỗi sầu trăm ngả. Củi một cành với thân phận mong manh, vì thế trở thành "cái tôi" xê dịch giữa mấy dòng li tán. Sự sống trong vũ trụ Tràng giang trở nên mờ mịt, gián cách giữa hiện tại và quá khứ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Cồn nhỏ lơ thơ như những nấm mồ hoang lạnh vật vờ trong cõi mịt mờ sương khói. Âm vang đìu hiu của con gió như thổi cái hồn của quá khứ vọng về hiện tại, xua sự sống của hiện tại vào hư ảnh của tương lai. Làng của một thời mất rồi, chỉ còn nghe dư âm. Chợ tưởng như đang còn đó nhưng đã muộn màng, chưa sum họp đã ly tan. Sự sống chứa đựng trong cái vũ trụ này có vẻ tiếp liền đấy mà vẫn chia cắt, nối kết đấy mà vẫn đứt đoạn: bèo dạt hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng hóa thành không một chiếc đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật. "Cái tôi" cảm thấy bơ vơ, lạc lõng không biết về đâu trong cõi xa khuất nghìn trùng.
Bao nhiêu thanh âm tinh tế, mơ màng của sự sống được biểu đạt qua tiết tấu ngữ âm của thi ca: điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, chót vót cuối cùng dồn tụ lại thành âm ba "dợn dợn" có sức mạnh cuộn x ... liệt đến nỗi từng bước của chàng trai lan toả, xen đầy cả không gian :
Gió theo lối gió mây đường mây 
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Mạch cảm xúc không dứt mà tạo một dư âm :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Có lẽ cấu tứ của đoạn thơ này được bắt nguồn từ nỗi nhớ về dòng sông Hương êm đềm. Cảnh vật trong khổ thơ buồn da diết, vừa hiện thực vừa hư ảo. Nó khiến người đọc như vừa gặp một ảo giác, cụ thể đấy mà cũng thật mơ hồ. Gió mây thường có mối quan hệ gắn bó khăng khít, "gió thổi mây bay", nhưng ở đây gió mây lại theo hai đường, thậm chí ngăn cách nhau quyết liệt :
Gió theo lối gió mây đường mây
Gió mây ở đây không phải là hiện thực mà nó mang tâm trạng của người trong cảnh chia lìa. Nhớ Vĩ Dạ nhưng không thể trở về nơi ấy được nữa nên buồn và nỗi buồn đã tràn ra cảnh vật :
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình, dòng Hương giang hiện lên thật buồn. Nhớ Hương giang lại nhớ đến những đêm trăng huyền diệu. Trăng gợi vẻ đẹp huyền ảo song trăng cũng dễ gợi sự cô đơn, lạnh lẽo :
Trăng sáng, trăng xa trăng rộng quá 
Hai người nhưng chẳng bớt cô đơn.
(Xuân Diệu)
Trăng từng xuất hiện rất nhiều trong thơ Hàn Mặc Tử với đủ hình dạng, trạng thái khác nhau :
Trăng nằm sóng xoãi trên cành liễu
Đợi gió thu về để lả lơi.
Còn ánh trăng ở đây lại là một ánh trăng huyền ảo, một không gian tràn đầy trăng và thơ :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Sáng tạo độc đáo của Hàn Mặc Tử là ở hình ảnh "sông trăng". Trăng tràn đầy không gian từ dòng sông đến cõi mộng. Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của trường phái thơ siêu thực và tượng trưng Pháp, có lẽ câu thơ này là kết quả của những ảnh hưởng đó. Hai câu thơ hay mà không thể lí giải cụ thể. Đó cũng chính là bí mật hấp dẫn của thi ca. Ai có thể chở được ánh trăng. Câu thơ gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và thể hiện tâm hồn thơ lãng mạn của thi nhân. 
Đến khổ thơ thứ ba cảnh vật không còn nữa, kỉ niệm trở về ngập hồn nhân vật trữ tình. Và lúc này những rung động của anh đối với Vĩ Dạ đã tập trung ở hình ảnh người con gái "mờ mờ nhân ảnh".
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
"Ở đây" là ở đâu ? Dù ở đâu thì cũng đã bị bao phủ bởi sương khói của thời gian. Ai là một đại từ phiếm chỉ. Một đại từ phiếm chỉ được sử dụng hai lần trong một câu thơ, gợi lên bao ý nghĩa. Câu thơ tha thiết một khát khao, một ước nguyện muốn có người hiểu được tâm sự của mình. Đồng thời thể hiện tâm trạng hoài nghi. Trong bài thơ có tới bốn lần tác giả sử dụng đại từ ai, và "anh" và "em" đã hoà nhập trong từ ai ấy, hoà nhập trong tâm tưởng của thi nhân. Câu thơ cuối cùng thoáng chút hoài nghi ấy xuất phát từ lòng khát khao sống, khát khao giao tiếp với cuộc đời ; xuất phát từ niềm khao khát thuỷ chung. Vượt lên nỗi đau riêng, thơ Hàn Mặc Tử nói lên tâm trạng chung của bao lứa đôi xa cách
"Thơ đi từ cái thực tới cái ảo ảnh, từ ảo ảnh đi tới cái huyền diệu, từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là thế giới mơ", đó là lời của Hàn Mặc Tử về thơ và có lẽ là về chính Đây thôn Vĩ Dạ.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ - HÀN MĂC TỬ
Mỗi con người vn hẵn điều biết đến lời rao trăng nổi tiếng của nhà thơ đậm chất trữ tình lãng mạng HMT trong những năm 30 của thế kỉ XIX và lời rao trăng đó đã in sâu vào lòng độc giả . ông là một thiên tài như những ngôi sao sáng loá trong bầu trời thơ mới nhưng cuộc đời ông cũng chứa đầy bất hạnh, ông lun đau đớn quằn quại bên chiếc giưòng trong trại phong quy hoà và nơi đó có sự vật lộn và giằng xé giữ dội giữa linh hồn và xác thịt của hmt với căn bệnh quái gở. và chính nơi đây hmt đã tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật điên loạn , ma quái. và Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử.Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, tuy vậy bên trong những dòng thơ ấy vẫn có những dòng thơ trong sáng, thanh khuyết đến lạ thường. đây thôn vĩ dạ trích trong tập thơ điên là tác phẩm như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia ,là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ. 
Xứ huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn nhà thơ. Có lẽ trong đó xuất sắc nhất là tập thơ điên của hmt với chất điên loạn ấy ,hmt mở đầu với câu hỏi : sao anh ko về chơi thôn vĩ ? trong chính câu hỏi đó đã mang nhìu sắc thái biểu cảm như là vừa hỏi vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người . câu thơ bảy chữ nhưng chứa đến sáu thanh bằng làm cho giọng thơ êm dịu và tình tứ đi , chính sự êm dịu đã làm cho lời trách móc dịu nhẹ đi . nhưng ở đây ko phải là lời trách của hoàng cúc mà là của chủ thể trữ tình hmt, từ nỗi lòng da diết đối với xứ huế trong tâm trạng tuyệt vọng nhưng đầy khát khao của hmt , đã vẽ ra khung cảnh thôn vĩ tuyệt đẹp như trong chuyện thần tiên trong ba câu tiếp theo:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. đó là hàng cao thẳng tắp đang tắm mình dưói nắng. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Giạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh mơn mỡn ở thôn Vĩ Giạ: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. ở đây cho ta thấy sự vươn lên mạnh mẽ , tràn trề, đấy sức sống và làm ta thấy sự tươi trẻ , yêu đời. trong ko gian tươi trẻ đó lại hiện lên gương mặt chữ điền, phúc hậu. với lá trúc che ngang gương mặt phúc hậu đã tô đậm vẽ đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu.
Câu thơ đẹp vì sự hài hoà giữa cảnh vật và con người. tâm trạng nhân vật trong đoạn thơ này là niềm vui , vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi dc trở về với cảnh và người thôn vĩ.
Thêế nhưng cũng cùng ko gian là thôn vĩ dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ bình minh lên chiều tà và thi nhân đã vạch ra một ko gian mênh mông, to lớn có đủ gió, mây, sông, nước, trăng, hoa. với ko gian to lớn đó thi nhân đã miêu tả hai thực thể luôn gắn bó trong trạng thái chia lìa.”gio theo  đường mây” . Điều này là ngang trái, phi hiện thực và phi lí. Qua đó cho thấy, thi nhân tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của mặc cảm. Đó là mặc cảm của một người gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa với cõi đời nên nhìn đâu cũng thấy chia lìa. vốn dĩ thi nhân đang vui sướng khi về thôn vĩ dạ trong buổi ban mai lại đột ngột trở nên pùn , u uất . có lẽ nổi pùn là do bởi mối tình đơn phương và kỉ niệm đẹp với cảnh và người xứ huế mộng mơ tạo nên . quả thật ngưòi bùn cảnh có vui bao giờ. huế vốn thơ 
mộng, êm đềm. thi nhân lại làm cho nó trở nên vô tình, xa lạ.
Dòng hương giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca vn thế mà bây giờ lại buồn thju, lòng sông bùn, bãi bờ của nó cũng bùn, hoa bắp vô hưong vô sắc đang đưa nhẹ trong gió.cảnh pùn chỉ đến đó. thế nhưng đêm xuống trăng lên lại là con người hoàn toàn mới. với tính cách lãng mạn thi nhân đã tạo nên Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng, tất cả đều lung linh, huyền ảo  trăng đã đi vào tìm thức của con người vn từ lâu nhưng trăng ở đây lại khác trăng của thế hệ trứoc và đương thời. nào có con thuyền nào chở dc trăng nhưng ở đây thi nhân lại thấy con thuyền trở trăng. điều đó làm cho mọi vật nơi đây trở nên huyền ảo , đầy lãng mạn. Tuy nhiên đối diện với trăng thi nhân vẫn mang một tâm trạng bất an. . Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Thi nhân hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ.
Nói đến tới đây ta hiểu thêm nổi bùn trong lòng thi nhântrong lòng chứa đầy khát vọng sống, khát vọng yêu. Nhưng đó chỉ là khát vọng mong manh của thi nhân mà thuj.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
  Áo em trắng quá nhìn ko ra
  ở đây sương khói mờ nhân ảnh
  ai biết tình ai có đậm đà?”
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. với giọng thơ sâu lắng , dịu bùn đã tạo nên một nổi lòng đang tha thiết ngóng trong một nhân hình . nhưng sao nó cứ chập chờn, xa vời thế. “đường xa” có thể là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất.
 Hình ảnh sương khói gợi lên hình ảnh cô gái xứ huế mờ mờ , ảo ảo và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới sống và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ. thi nhân đang cố bám vúi vào sự sống nhưng khó có thể thoát dc quy luật sinh lão bệnh tử. sưong và khói còn cho thấy sự đau đớn tột cùng trong lòng thi nhân và cuộc sống nơi xứ huế. Con người huế như nhạt nhoà đi bởi sương , khói và có lẽ tình ngưòi cũng nhạt nhoà đi điều đó làm cho thi nhân cảm thấy sợ và hoài nghi về người thôn vĩ còn nhớ đến mình ko? Và ko bik’ mình có còn mặn mà với áo em ko? “ai bik tình ai có đậm đà “
nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, ko tin tưởng về nhau. Thi nhân cũng rơi vào trạng thái ấy và đã bộc bạch lòng mình cùng trang giấy
Đọc xong bài thơ “đây thôn vĩ dạ” của hmt nhất là khổ thơ “ gió theo lối gió  kịp tối nay” để lại trong lòng người đọc tình cảm đẹp. đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm tư của một nhà thơ sắp lìa đời. lời thơ vì thế trầm bùn, sâu lắng, đầy suy tư. Và cho ta thấy một xứ huế nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc.

Tài liệu đính kèm:

  • docTAI LIEU TLV TRANG GIANG DAY THON VI DA.doc