Giáo án môn Ngữ văn 11 - Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến

Giáo án môn Ngữ văn 11 - Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến

 Nguyễn Khuyến hiệu là Quế Sơn sinh 1835 ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, trước kia thường gọi là làng Và hay Cầu Đổ, một nơi hẻo lánh ở huyện Bình Lục, Hà Nam. Chính tên là Nguyễn Văn Thắng, sau vì thi rớt khoá Hội thi năm 1865 mới đổi tên là Nguyễn Khuyến. Cuộc đời ông có thể chia làm ba giai đoạn:

 a. Hàn vi (1835 - 1871)

 Từ nhỏ nổi tiếng là thông minh và chăm học. 12 tuổi đã thông thạo kinh sử. Năm 15 tuổi đỗ đầu kỳ thi phúc khảo hàng tỉnh, nhưng chưa kịp thi Hương thì thân phụ mất phải ở nhà cư tang. Gia cảnh từ đó sa sút dần. Nguyễn Văn Thắng lại trượt mấy khoa thi Hương, nên phải dạy học một thời gian. Năm 1864 đỗ giải nguyên kỳ thi Hương tại trường Hà Nội. Nhưng lại hỏng thi Hội khoá tiếp, cụ đổi tên thành Nguyễn Khuyến và ở lại kinh học với cụ nghè Vũ Văn Lý. Năm 1871 đỗ đầu cả thi Hội lẫn thi Đình nên được gọi là Tam Nguyên.

 

doc 8 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 2268Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn 11 - Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. cuộc đời, sự nghiệp
 1. Tiểu sử:
 Nguyễn Khuyến hiệu là Quế Sơn sinh 1835 ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, trước kia thường gọi là làng Và hay Cầu Đổ, một nơi hẻo lánh ở huyện Bình Lục, Hà Nam. Chính tên là Nguyễn Văn Thắng, sau vì thi rớt khoá Hội thi năm 1865 mới đổi tên là Nguyễn Khuyến. Cuộc đời ông có thể chia làm ba giai đoạn:
 	 a. Hàn vi (1835 - 1871)
 	 Từ nhỏ nổi tiếng là thông minh và chăm học. 12 tuổi đã thông thạo kinh sử. Năm 15 tuổi đỗ đầu kỳ thi phúc khảo hàng tỉnh, nhưng chưa kịp thi Hương thì thân phụ mất phải ở nhà cư tang. Gia cảnh từ đó sa sút dần. Nguyễn Văn Thắng lại trượt mấy khoa thi Hương, nên phải dạy học một thời gian. Năm 1864 đỗ giải nguyên kỳ thi Hương tại trường Hà Nội. Nhưng lại hỏng thi Hội khoá tiếp, cụ đổi tên thành Nguyễn Khuyến và ở lại kinh học với cụ nghè Vũ Văn Lý. Năm 1871 đỗ đầu cả thi Hội lẫn thi Đình nên được gọi là Tam Nguyên.
 	 b. Xuất chính (1871 - 1885).
 	 Đỗ xong cụ được bổ ngay làm Đốc học Thanh Hoá, rồi thăng lên án sát Quảng Bình, bố Chánh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Vì liêm khiết lại tài ba nên được giữ những chức vụ trọng yếu trong triều. Nhưng cụ không nhận vì nhận thấy quan lại lúc bay giờ thối nát, tranh giành lẫn nhau. Cụ xin từ chức nhưng vua Tự Đức không cho lại cử làm Tuần Phủ, rồi triệu về kinh làm Sử quán Toản tu. Sau đó được cử làm Thiên Tân Hậu Mệnh để giải quyết ngoại giao với Trung Hoa. Năm 1882 khi quân Pháp uy hiếp Hà Nội cụ được phái làm thượng biện để lo việc ngoại giao với họ rồi được tăng Tổng Đốc Sơn Tây, Hưng Hoá và Tuyên Quang. Nhưng người pháp ngày càng lấn át triều đình Huế, chuyên quyền ở Bắc, cụ chán nản thời cuộc nhiễu nhươnglại thêm các bạn thân một phần phản bội tổ quốc ra hợp pháp với tây như Dương Khuê, một phần từ tiết như cụ nghè Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Khuyến liền lấy cớ đau mắt dâng sớ cáo quan để trốn đời.
 	 c. Quy ẩn (1885 - 1910).
 Về ở ẩn nhưng cụ nhưng cụ vẫn không được yên ổn vì Pháp muốn mượn thanh thế cụ để thu phục lòng người, nên đã dùng nhiều cách mời mọc, cưỡng ép cụ tham chính trở lại nhưng cụ đều tìm cách khước từ. Thấy vậy Tây lệnh cho Hoàng Cao Khải kiểm soát cụ gắt gao. Để họ khỏi nghi ngờ cụ nhận lời dạy học riêng tại nhà họ Hoàng và cho con là Nguyễn Hoan ra làm quan. Có lẽ trong giai đoạn này cụ đã sáng tác các bài thơ kí gởi tâm sự và tỏ bày lập trường riêng.
 Khi đựơc thực dân và tay sai để yên hoàn toàn, cụ liền rút lui hẳn về thôn quê, hoà mình với đám dân chất phác, tiêu dao bằng cảnh thú thiên nhiên và nếp sống hiền hoà với dân bình dị ở đây. Và do sự bình dị của một ông quan Tổng Đốc về hưu mà dân làng kính yêu quý mến cụ. Cuộc đời cụ êm ả trôi đến ngày 15/1/1910 cụ qua đời tại làng yên đổ thọ 76 tuổi.
2. Sự nghiệp: 
 Thi ca Nguyễn Khuyến còn để lại khá dồi dào và gồm đủ loại:
 - Về Hán văn: có “Quế Sơn thi văn tập”.
 - Về chữ Nôm có rất nhiều bài thuộc các thể thơ luật, hát nói, lục bát, văn tế
Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung:
- Bộc bạch tâm sự của mình.
- Viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương – một vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ.
- Chế giễu đã kích những kẻ tham lam, ích kỉ, tuỳ thời, cơ hội lúc bấy giờ.
* Nguyễn Khuyến là nhà thơ được đào tạo ở “cửa Khổng sân Trình”, đối với ông, con người sinh ra phải học hành, đỗ đạt và ra làm quan để “thờ vua giúp nước”, thực hiện nghĩa vụ “trí quân trạch dân”. Nhưng trong thời buổi bấy giờ, thực dân Pháp đang đánh chiếm nước ta, triều đình bạc nhược đã lần lượt đầu hàng giặc. Cuối cùng một nhà nho chân chính như Nguyễn Khuyến đã quyết định từ quan về ở ẩn. Ông cảm thấy buồn cho những kẻ cơ hội, tuỳ thời đã tiếp tay cho giặc. Ông viết về tiếng cuốc kêu và đó cũng là tiếng lòng của ông đối với non sông đất nước:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
* Phần lớn cuộc đời Nguyễn Khuyến sống ở nông thôn. Ông có quan hệ thân tình với mọi người. Ông viết nhiều về con người, về thiên nhiên, cảnh vật ở nông thôn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến, dường như cuộc sống ở nông thôn lúc nào cũng khó khăn, túng thiếu:
Sớm trưa dưa muối cho qua bửa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
 (Chốn quê).
Và khi gặp năm mất mùa thì tết nhất lại càng thê thảm:
Dở trời mưa bụi còn hơi rét,
Nếm rượu tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
 (Chợ đồng).
* Là một nhà nho đã từng làm quan, Nguyễn Khuyến thấy khá rõ cái xấu của xã hội đương thời. Vậy nên, trong thơ ông đã vạch trần tất cả những thói hư tật xấu của đủ mọi hạng người trong xã hội. Trước hết là bọn quan lại, ông gọi họ là “Tiến sĩ giấy”, là “phỗng đá” . Ông đả kích thói rởm đời, lố lăng, thứ con đẻ của xã hội thực dân. Ngòi bút đả kích của Nguyễn Khuyến trở nên chua xót, cay đắng khi ông tả cảnh ngày “Hội Tây”:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bay nhiêu.
B. NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG
TRONG THƠ CỦA NGUYỄN KHUYẾN.
Ngoài những thái độ thông thường, lập đức, lập công nho sinh còn có thái độ lập ngôn. Thật vậy mỗi lần hoà mình trong xã hội thối nát, chứng kiến những trò lố lăng của người đời, nhà nho không có quyền khoanh tay yên lặng, họ có bổn phận dùng lời để hoàn lương xã hội. Nguyễn Khuyến, bậc túc nho làng Yên Đổ, hơn ai hết nhìn sâu vào cuộc đời, thấy rõ sự đổ nát của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời, cho nên dù bản tính điềm đạm, thi nhân cũng biến mình thành nhà thơ trào phúng. Mỗi nụ cười châm biếm của mỗi nhà thơ đều có sắc thái riêng biệt. 
	I. Đối tượng trào phúng:
 Nguyễn Khuyến biết rằng, ở con người của ta và của kẻ khác bao giờ cũng có những hành động sai lầm, những tư tưởng lệch lạc. Nho sinh trước tiên phải sửa cái sai xấu xa của mình để cải thiện cuộc sống trước khi lên tiếng chống báng thế sự đảo điên. Thái độ đó biểu lộ sự tự trọng của nhà nho. Vì vậy thi ca trào phúng của Nguyễn Khuyến đã biểu lộ hai thái độ tự trào và thế trào.
1. Tự trào: 
Mang danh là một bậc tam Nguyên đáng lẽ thi nhân phải là một kẻ hoàn toàn từ đức tính, tài ba cho đến bổn phận nhưng Nguyễn Khuyến nhận thấy mình còn nhiều khiếm khuyết cần phải đem ra để chỉ trích.
 	Bàn về tài ba cũng như đức tính, Nguyễn Khuyến đã không dấu diếm:
Cờ đang dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách
Gàn môi chén mãi tít cung thang.
 (Tự trào)
 	Ngay đến cái thói xấu và say sưa thi nhân vẫn không bỏ được:
Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
 Hay ưa nên nỗi chưa chừa được
Chừa được nhưng ông vẫn chửa chừa.
 (Chừa rượu)
 	Hơn nữa mỗi lần nghĩ đến thái độ bất lực của mình trước thời cuộc đen tối lúc bấy giờ, Nguyễn Khuyến không thể không cảm thấy tủi nhục, để rồi thi nhân tự lên tiếng bày tỏ sự hổ thẹn của mình:
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời
 (Di chúc)
2. Thế trào: 
Thái đôï tự trào chỉ để sửa soạn cho sự xoay hướng mũi dùi trào phúng vào xã hội. Có thể nói là Nguyễn Khuyến đã không ngần ngại đem tất cả các hạng người xấu xa trong xã hội để làm đối tượng cho những bài thơ thế trào của mình:
 	 a. Với quan lại: 
Xã hội thối nát tận gốc rễ khai sinh ra bọn quan lại bất tài, hống hách, Nguyễn Khuyến đã điểm mặt chúng. Thi nhân ví bọn này có khác chi những ông tiến sĩ làm bằng giấy, một thứ đồ chơi của trẻ con nhân tết Trung thu:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh áy mới hời
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi
 (Ông nghè tháng Tám)
 	Quan lại đã bất tài, việc nước chẳng biết lo mà tham nhũng:
Ai rằng ông dại với ông điên
Ông dại sao ông biết lấy tiền
 (Tặng một viên quan tham nhũng).
 	Nguyễn Khuyến không ngần ngại tuyên chiến với bọn quan lại này. Vì vậy khi nghe tin một quan tuần mất cướp, vừa mất của vừa bị đánh đòn, thi nhân đã hả hê buông lời châm chọc:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Cướp của đánh người quân tệ nhỉ,
Xương già, da cóc có đau không.
 (Hỏi thăm quan tuần mất cướp).
	Ngay đến các quan Đốc học cũng không thoát khỏi lời công kích. Nguyễn Khuyến mạt sát Đốc học là tay sai của thực dân:
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ. 
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.
 	b. Các bậc tu hành:
 Thành phần lãnh đạo xã hội đã vậy, các vị lãnh đạo tinh thần đa số lại không xứng đáng. Họ lợi dụng cửa thiền ché thực sự không phải muốn tu hành. Nguyễn khuyến tuy trọng vọng những bậc chân tu nhưng cũng không quean đùa cợt với các nhà sư không trọn đạo:
Đầu trọc tếch bình vôi,
Nhảy tót lên chùa ngồi
Y, a kinh một bộ,
Lóc cóc mõ ba hồi
 (Vịnh sư)
 	Ngay đến những cô tiểu nơi cửa thiền cũng bị thi nhân đem ra trêu cợt khi thấy dáng điệu cô nằm ngủ thật là gợi cảm:
 Ôm kinh gối mõ gáy khò khò,
 Gió lọt buồng thiền mát mẻ cô.
Then cửa từ bi gài nửa cánh,
Nén hương tế độ đốt đầy lò. 
 (Cô tiểu ngủ ngày)
 	c. Thầy đồ: 
Sự suy sụp của đạo lýkhông chỉ lan đến cửa chùa, mà còn làm bại hoại cả tầng lớp trí thức. Tiêu biểu nhất là các thầy đồ. Mang danh nhà mô phạm, nhưng sự đời đảo điên, tình dục đã làm mờ ám lương tri để rồi Nguyễn Khuyến lên tiếng:
Ở goá thế gian này mấy mụ,
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy.
Yêu con cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.
 (Thầy đồ ve gái)
 Nếu có những “Thầy đồ ve gái” thì cũng có những “Thầy đồ bị gái lừa”:
Cùng nhau chửa được mấy ngày,
Cô tiêu cũng lắm thầy vay cũng nhiều.
Yêu người, người lại chẳng yêu,
Chiều hoa, hoa lại chẳng chiều mới căm.
 (Thầy đồ bị gái lừa)
d. Cô đầu: 
Ngay đến những hạng người như cô đầu cũng thấy xuất hiện trong thi ca trào phúng của Nguyễn Khyến. Nhân nghe tin một cô đầu nằm mê bị bóng đè, Nguyễn Khuyến lại có dịp châm biếm:
Cô đầu sen là người thi liệu,
Cớ làm sao õng ẹo với làng nho.
Bóng đâu mà đến đè cô,
Bỗng thấy chuyện nhỏ to đâm thắc mắc.
 ( Cô đầu bị bóng đè)
 	e. Những người tham dự Hội Tây: 
Lời chỉ trích của thi nhân lại nhắm đến hạng bình dân. Người Pháp đến Việt Nam thường tổ chức ngày hội nhân lễ độc lập của họ, thanh niên nam nữ Việt Nam không biết cái nhục vong quốc lại còn hăng hái tham dự, bày cảnh lố lăng:
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bay nhiêu.
 (Hội Tây)
 	Như vậy chúng ta có thể ghi nhận rằng Nguyễn Khuyến đã cười, đã mĩa mai rất nhiều đối tượng.
 II. Đặc tính nghệ thuật:
Thái độ trào phúng của thi nhân bao giờ cũng biểu lộ những sắc thái nghệ thuật đặc biệt. Sinh trước tú xương hơn 30năm, được chứng kiến sự biến chuyển của xã hội trong buổi giao thời một cách trọn vẹn, Nguyễn Khuyến không vội vàng hấp tấp. Thi nhân là một nho sinh cho nên không ưa lối biểu lộ tình cảm một cách ồ ạt, suống sã. Khi châm biếm, đùa cợt Nguyễn Khuyến vẫn giữ được cái cười kín đáo tế nhị và sâu xa.
a. Lối chỉ trích kín đáo: 
Khi chỉ trích người, nhà thơ bao giờ cũng giữ sự kín đáo. Chỉ trích quan lại bất tài thi nhân chỉ ví bọn này như Tiến sĩ giấy:
Mãnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Lời lẽ kín đáo được xem là một đặc tính nghệ thuật trong thi ca trào phúng của Nguyễn Khuyến. Thi nhân thường mượn một hình thức tầm thường bên ngoài để che đậy cái nội dung sâu kín bên trong. Mỗi lần muốn chỉ trích một đối tượng nào, nhà thơ thường không nêu đích danh mà chỉ dùng lối gián tiếp. Nói đến quan lại bất tài, Nguyễn Khuyến lại mượn hình ảnh tiến sĩ giấy để lên tiếng công kích mỉa mia:
Mày râu vẻ mặt vang trong nước,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu.
Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,
Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu.
 (Tiến sĩ giấy)
Đôi lúc lại dựng lên một hoạt cảnh, một vở kịch như “Lời vợ phường chèo” để gián tiếp mạt sát vua quan lúc bấy giờ:
Vua chèo còn chẳng ra gì.
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.
 (Lời vợ phường chèo)
b. Lời chỉ trích nhẹ nhàng: 
Không những thế, vì hấp thu đạo đức Nho giáo lại thêm bản tính hiền hoà, lời chỉ trích của Nguyễn Khuyến không phải là nhứng lời trắng trợn, sỗ sàng, thi nhân cho rằng lối răn dạy, sự sửa lỗi phải nhẹ nhàng để người lầm lỗi đủ bình tĩnh nghiệm xét, may ra mà sửa lỗi chăng? Khi nhắm đến ông đốc Hưng Yên, Nguyễn Khuyến chỉ dùng những lời thật hiền lành:
Ông làm Đốc Học mấy năm nay,
Gần đó mà tôi chưa được hay.
Tóc bạc răng long chừng bậc cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
 (Gửi ông Đốc Học)
c.Ý sâu sắc chua cay:
 Nhưng khi những thói hư tật xấu tiếp diễn, nho sinh có bổn phận khôi phục và duy thế đạo nhân tâm, nho sinh không chấp nhận tội lỗi, vì nếu lời trào phúng nhẹ nhàng hời hợt thì nhiệm vụ hoàn lương xã hội làm sao trọn vẹn được. Lời chỉ trích không nặng nề, song ý tứ phải sâu xa và nếu cần chứa luôn sự chua chát. Cái cười cảu Nguyễn Khuyến đậm đà, xa xôi. Như khi muốn mắng bọn quan lại hống hách, thi nhân đã dùng những cười cợt nhẹ nhàng, nhưng khi đi vào chiều sâu chúng ta mới thấy là những mạt sát: :
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật hoá hoá đồ chơi.
 (Ông nghè tháng Tám).
	Ngắm nghía ông tiến sĩ giấy, thi nhân thấy giá trị của nó hèn kém có khác chi bọn dốt nát nhờ nịnh bợ luồn cúi mà đỗ đạt:
Mày râu mặt ấy vang trong nước,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu.
 (Tiến sĩ giấy).
	Đọc qua nghe nhẹ nhàng, nhưng suy kỹ, biết thâm ý của Nguyễn Khuyến mới hay đó là lời mạt sát.
Tính chất thâm trầm chua cay lại càng rõ ràng hơn chúng ta đọc đoản kịch trào lộng “Lời vợ phường chèo”. Thật vậy, thái độ ấm ớ, ngớ ngẩn của anh phường chèo:
Xóm bên đông có phường chèo trọ,
Đang nửa đêm với vợ chuyện trò.
Rằng ta thường làm quan to, 
Sao người xem chẳng ra trò trống chi?
 (Lời vợ phường chèo)
Giữa đêm khuya đem chuyện vớ vẩn hỏi vợ thì thiệt là điên. Không những thế, chàng ta ngu dốt và vô liêm sỉ đến độ:
Vợ giận lắm mắng đi mắng lại,
Tuổi đã già sao dại như di.
Nửa đêm sao chẳng biết gì,
Người ta biết đến thiếp thì hổ thay.
 (Lời vợ phường chèo)
Đừng tưởng Nguyễn Khuyến muốn nói đến chuyện phường chèo, lời lẽ trên thi nhân dành cho bọn quan lại trong triều lúc bấy giờ đấy! Vợ mà mắng chồng thì chồng là kẻ tồi, lại mắng đi mắng lại vì chồng ngu. Vợ biết hổ thẹn trong khi chồng trơ ra không biết nhục. Thật là nhứng lời chua cay mà Nguyễn Khuyến đã gửi đến bọn quan bù nhìn.
d. Thái độ quân tử: 
Dù sao, Nguyễn Khuyến cũng là bậc túc nho cho nên khi chỉ trích người đời thi nhân phải bảo vệ tác phong quân tử của mình. Thật vậy, trước khi thế trào, Nguyễn Khuyến đã tự trọng, đem cái xấu xa của mình ra để mỉa mai:
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng.
 (Tự trào)
Khe khắt với mình xong mới bắt đầu lên tiếng sửa sai người đời. Lời trào phúng của Nguyễn Khuyến luôn luôn có tính cách xây dựng, mang nhiều tính chất giáo dục làm cho những đối tượng bị thi nhân trêu chọc ngẫm nghĩ và nghiệm xét hành động mình. Họ đã lĩnh hội lời khuyên nhủ của Nguyễn Khuyến. Sau khi chỉ trích bọn thanh niên nam nữ bày trò lố lăng, tạo cảnh vong quốc trong ngày Hội Tây, Nguyễn Khuyến đã kết thúc bằng lời khuyên của một người lớn đối với hậu sinh:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.
 (Hội Tây).
C. LỜI KẾT
	Thơ văn Nguyễn Khuyến thường mang nhiều nét có tính chất trào lộng, châm biếm. Tính chất châm biếm, trào lộng này cũng do nội dung tư tưởng của thơ văn ông và tình trạng tầng lớp ông quy định. Thái độ trào phúng của Nguyễn Khuyến thường nhẹ nhàng, mát mẻ, nhiều khi kín đáo nhưng chua chát, sâu cay và thâm thuý. Mức độ trào phúng của nhà thơ cao hay thấp, nặng hay nhẹ tuỳ từng đối tượng. Và thái độ châm biếm của ông thường là thái độ của kẻ đàn anh đứng ở vị trí trên mà nhiếc móc, mỉa mai kẻ dưới.

Tài liệu đính kèm:

  • docTieu luan nghe thuat trao phung trong tho Nguyen Khuyen.doc