Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống.
Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.
Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật tất yếu.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" và "Hai đứa trẻ" TS. Hoàng Thị Huế Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống. Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả. Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật tất yếu. “Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách người viết, nó thể hiện thế giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ như một cách di dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con người này. Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối. Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bóp thái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả màu"(3). Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ(4). Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ ứng xử đẹp. Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻ tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm. Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải. Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6). Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo ... ủa cuộc sống được nó nắm bắt một cách nhanh chóng, nhạy bén. Sự nhanh chóng nhạy bén này không chỉ thể hiện ở việc nắm bắt vấn đề, mà chỉ tính riêng đến thời gian để ra đời một truyện ngắn cũng có thể nói lên điều đó. Nhà tiểu thuyết phát hiện ra một vấn đề, nhưng để viết được một tiểu thuyết có dung lượng vừa phải, ít nhất nghệ sĩ phải mất một năm. Những vấn đề nóng hổi của thời đại, những cách nhìn nhận mới về con người loé lên trong đầu nhà văn, có thể nói, thời gian để quan niệm ấy hoá thân thành thế giới nghệ thuật sẽ không cần nhiều như tiểu thuyết. Đây là một đặc điểm gắn liền với báo chí của thể loại cỡ nhỏ này. Cùng thể hiện quan niệm con người khó mà hoà hợp được khi bước từ thời chiến vào thời bình, Bảo Ninh đã sử dụng đến dung lượng hàng trăm trang trong tiểu thuyết Thân phận tình yêu, còn Nguyễn Huy Thiệp chỉ cần dùng một truyện ngắn với dung lượng vài chục trang mà cũng không kém phần ấn tượng (Tướng về hưu)... Truyện ngắn không chỉ nắm bắt một cách nhanh nhạy, mà còn thể hiện một cách ấn tượng và linh hoạt những khía cạnh trong quan niệm nghệ thuật về con người. Không phải là trong tiểu thuyết không xuất hiện những kiểu người như trong truyện ngắn, chỉ có điều những nhân vật đó xuất hiện với tư cách nhân vật phụ nên thường không gây được sự chú ý của người đọc, nhà văn không tập trung làm sáng tỏ những quan niệm mà loại nhân vật này có khả năng thể hiện. Những nhân vật phụ trong tiểu thuyết trở nên ấn tượng hơn, những quan niệm về con người được thể hiện trong những nhân vật đó trở nên sắc nét hơn khi đi vào truyện ngắn, bởi vì trong truyện ngắn, những nhân vật đó trở thành nhân vật chính, mọi chi tiết, sự kiện, ngôn từ chỉ tập trung làm sáng tỏ nhân vật đó, con người đó. Truyện ngắn không chỉ tạo điều kiện cho nhà văn thể nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con người mà còn tạo điều kiện khai thác khả năng đồng sáng tạo của độc giả. Đặt con người vào trong "tổng hoà các mối quan hệ xã hội", bên cạnh ý thức, nhân vật còn hiện diện cả phần nội tâm, tiềm thức và vô thức, các tác giả truyện ngắn đã khêu gợi ở người đọc cách lý giải, nhìn nhận con người. Truyện ngắn thường nêu ra các vấn đề của nhân sinh để người đọc tự suy ngẫm, lí giải theo quan niệm của riêng mình. Phương thức tồn tại đầy đủ nhất của tác phẩm văn học chính là tồn tại trong chủ quan tác giả, trong văn bản và trong sự tiếp nhận của độc giả. Khai thác sự đồng sáng tạo từ phía người tiếp nhận không chỉ tạo nên tính dân chủ trong tiếp nhận mà còn tăng sức nặng của những vấn đề được đặt ra. Những vấn đề nhà văn chỉ nêu lên sẽ lớn dần trong sự tiếp nhận. Người đọc không đơn giản là người tiếp nhận một cách thụ động mà còn là người tích cực chủ động tham gia cùng nhà văn vào việc nhìn nhận về con người, bổ sung những quan niệm của mình. Chính vì thế hình tượng nghệ thuật nói chung và quan niệm nghệ thuật về con người nói riêng trong truyện ngắn trở nên phong phú và sâu sắc hơn. Vấn đề đặt ra đối với sáng tác văn học nói chung không đơn giản là chuyện nhà văn viết cái gì, mà là chuyện nhà văn đã gợi lên được điều gì trong lòng độc giả sau khi đọc xong truyện đó. Truyện ngắn đã làm được điều này nhờ sức gợi của mình. Để tạo nên sức gợi, bên cạnh việc lựa chọn cách trần thuật, tác giả truyện ngắn cũng rất chú trọng đến lựa chọn những sự kiện, chi tiết thể hiện các khả năng có thể có của cuộc đời con người. Những số phận, những con người, những sự kiện phức tạp tự nó đã cho phép nhiều cách hiểu khác nhau. Truyện ngắn thường sử dụng cách trần thuật đầy ẩn ý, thường sử dụng các biểu tượng đa nghĩa. Chính điều này đã tạo nên tính hàm súc, cô đọng, chất thơ của thể loại, đồng thời phát huy khả năng đồng sáng tạo của độc giả trong việc đưa ra những quan niệm về con người, về cuộc sống nhân sinh. Người đọc sẽ luôn trăn trở về cách nhìn nhận con người cùng Nam Cao khi đọc Lão Hạc, Chí Phèo, Tư cách mõ...; sẽ luôn bị ám ảnh, và cùng Nguyễn Huy Thiệp suy nghĩ về con người khi đọc những truyện ngắn của ông như: Sang sông, Tướng về hưu, Không có vua... Nếu đem so sánh một tác phẩm với một tác phẩm thì rõ ràng, khả năng phản ánh hiện thực đời sống, khả năng thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của truyện ngắn không thể bằng tiểu thuyết. Nhưng xét trên phương diện thể loại (bao gồm nhiều tác phẩm) thì truyện ngắn không hề thua kém tiểu thuyết trong lĩnh vực này. Như ta biết, mỗi truyện ngắn thường chỉ thể hiện một quan niệm nghệ thuật về con người; chẳng hạn, truyện Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp yêu cầu chúng ta phải có cái nhìn khác về con người hiện nay, nhiều khi phải "đập tan bình cổ" để tiến đến một tương lai tươi sáng hơn, truyện Bức tranh của Nguyễn Minh Châu lại cho thấy bên trong con người luôn có cả rắn rết lẫn rồng phượng; truyện Đường Tăng của Hoà Vang quan niệm rằng, được làm người là ước mơ cao nhất của muôn loài, hạnh phúc của con người nơi trần thế mới là hạnh phúc đích thực; truyện Biến dạng (Hoá thân) của F. Kafka lại cho thấy sự bất lực của con người trong cuộc sống hiện tại... Như vậy, nhiều tác phẩm gộp lại, ta lại thấy truyện ngắn có khả năng thể hiện một cách khá toàn diện những cách nhìn nhận về con người. Cho nên, xét trên bình diện thể loại, khả năng thể hiện phong phú, đa dạng quan niệm nghệ thuật về con người của truyện ngắn là một thực tế. Cũng cần phải khẳng định rằng, truyện ngắn tạo thuận lợi cho việc đưa ra những quan niệm nghệ thuật có tầm khái quát cao. Sở dĩ như vậy vì truyện ngắn thường "chớp lấy cái thần thái" của nhân vật. ẩn sau mỗi sự kiện, chi tiết, nhân vật của truyện ngắn, bao giờ cũng là những ý tưởng hết sức sâu sắc. Người đọc có cảm giác như người viết truyện ngắn có sẵn trong đầu những quan niệm (tất nhiên, những quan niệm này cũng được rút ra từ sự quan sát thực tế), rồi tìm những cảnh đời phù hợp với quan niệm ấy. Đọc truyện ngắn, người đọc phải đi ngược lại tiến trình sáng tạo để tìm đến những quan niệm sâu sắc được nhà văn gửi gắm kín đáo. Nhiều triết lí được đưa ra trong truyện ngắn (nhất là truyện rất ngắn), ta có cảm giác như nó gần gũi với những bài học được rút ra từ truyện ngụ ngôn. Chẳng hạn truyện Bé yêu của L. Corxinxki (Nga), truyện Lời nói tình yêu của B. Laxkin, Sự biến hoá kì diệu của R. Kazkova... Nhà văn càng ít miêu tả, thuyết minh cụ thể, chi tiết, thì sức khái quát càng cao. ở một mức độ nào đó, truyện ngắn gần với thơ trữ tình. Đó chính là tính cô đúc, hàm súc, nói ít gợi nhiều. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ và truyện ngắn đều đạt tính khái quát xã hội cao nhưng truyện ngắn và thơ trữ tình vẫn có những nét riêng trong những khái quát về con người. Có thể nói truyện ngắn là thể loại tạo điều kiện để người sáng tác không ngừng vươn tới giới hạn tối đa trong cách hiểu con người. Truyện ngắn có nhiều khả năng độc đáo nhưng nó cũng có không ít những giới hạn trong việc thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người. Trước hết, do phải đảm bảo dung lượng "ngắn", thể loại này chỉ có thể "nêu" lên những quan niệm nghệ thuật về con người. Tức là truyện ngắn, không cho phép lí giải, phân tích, chứng minh, triển khai một cách dài hơi những quan niệm được nhà văn đưa ra. Với một quan niệm nghệ thuật về con người, nhà văn chỉ được phép thể hiện nó trong số lượng chi tiết, nhân vật, sự kiện hết sức hạn chế. Điều này càng bộc lộ rõ trong truyện rất ngắn - một biến thể của truyện ngắn. Truyện Làng gần nhất của F. Kafka thể hiện quan niệm về sự ngắn ngủi của cuộc đời, sự bất lực của con người bằng số lượng chữ cực kì hạn chế (chưa đầy 100 chữ khi được dịch ra tiếng Việt), bằng duy nhất một sự kiện, trùng khít với số chữ: "thật khó hiểu nổi vì sao một chàng trai lại có thể quyết định đi ngựa tới làng gần nhất mà không e ngại - cứ cho là không gặp tai nạn gì đi nữa - rằng một kiếp sống bình thường và trôi chảy, cũng khó mà đủ cho cuộc du lãm ấy". ở một phương diện nào đó, đặc điểm này tạo nên tính khái quát cao cho những quan niệm nghệ thuật về con người được nêu lên trong truyện ngắn, phát huy được khả năng đồng sáng tạo ở độc giả, nhưng mặt khác nó cũng gây trở ngại không nhỏ đối với sự tiếp nhận - nếu người đọc không tinh, không có nhiều kinh nghiệm nghệ thuật, kinh nghiệm cuộc sống, không có sự liên tưởng phong phú... thì hiệu quả của truyện ngắn sẽ không được phát huy đến mức tối đa. Đừng nên nghĩ rằng truyện có dung lượng nhỏ là sẽ dễ đọc hơn tiểu thuyết. Chỉ riêng việc tiếp cận thế giới nghệ thuật, nếu nhà văn sử dụng ít chi tiết, ít sự kiện, viết theo lối nói ít gợi nhiều đã gây khó khăn rất lớn cho người đọc. Tiếp cận những quan niệm của nhà văn về con người - nội dung nghiêng về triết lí, tư tưởng sâu xa - trong thể loại này càng khó hơn rất nhiều. Có nhiều người đã thừa nhận truyện ngắn đích thực không chỉ khó viết mà còn khó đọc. Như vậy, truyện ngắn đã gây không ít khó khăn cho nhà văn trong việc thể hiện cụ thể, chi tiết quan niệm nghệ thuật về con người; đồng thời cũng gây khó khăn cho độc giả trong việc tiếp nhận vấn đề đó. Nếu nhà văn non tay, sẽ dễ làm cho ý tưởng của mình bị lộ liễu, thiếu sức hấp dẫn. Cũng chính vì chỉ cho phép nhà văn "nêu" quan niệm, nên truyện ngắn hạn chế trong việc thuyết phục toàn diện độc giả. Trong tiểu thuyết, để làm sáng tỏ một quan niệm, nhà văn được phép sử dụng một khối lượng chi tiết, nhân vật, sự kiện khổng lồ với nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Khó ai có thể phủ nhận được quan niệm: trong xã hội tư sản, con người trở thành nô lệ cho đồng tiền, tính cách con người bị thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống khi đọc những tiểu thuyết của O. Bazăc. Người đọc cũng bị chinh phục bởi quan niệm cuộc đời, con người trên thế gian này thật là phi lí khi đọc Người xa lạ của A. Camus... Sở dĩ như vậy, vì trong tác phẩm, có rất nhiều chi tiết cùng tập trung thể hiện vấn đề đó - một sự việc, một hành động, một số phận chưa đủ sức thuyết phục, thì đã có những sự việc khác, hành động khác, số phận khác hỗ trợ. Trong khi đó, phần lớn truyện ngắn chỉ có một sự kiện chính với số chi tiết, số nhân vật hạn chế. Truyện ngắn mạnh về sức gợi nhưng lại hạn chế trong việc thuyết phục toàn diện. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, những khả năng của truyện ngắn được phát huy và những hạn chế được khắc phục ở mức độ khác nhau, gắn với những quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người. Sau 1975, trong giai đoạn mới, truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người một cách nhanh nhạy và sắc bén. Với đặc trưng cơ bản của thể loại, truyện ngắn đã tạo cơ sở cho sự biểu hiện những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Có thể nói chưa bao giờ trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng, con người lại được khai thác ở nhiều chiều kích và bình diện đến vậy. Tiếp cận với thế giới nhân vật trong các sáng tác, người đọc như được tiếp xúc với những con người có thực ở ngoài đời, cũng sinh động, phong phú và không kém phần phức tạp. Với ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, truyện ngắn góp phần làm cân bằng hài hoà trở lại cách nhìn nhận con người về mặt cộng đồng tập thể của giai đoạn văn học trước./. (Tạp chí Nghiên cứu Văn học sô 5/2006)
Tài liệu đính kèm: