Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Chủ đề 10: Tìm hiểu thêm về pus - Kin và ta - go

Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Chủ đề 10: Tìm hiểu thêm về pus - Kin và ta - go

A. Mục tiêu bài học

- Giúp hs tìm hiểu sâu hơn về hai nhà thơ từ đó khắc sâu kiến thức qua các bài văn, thơ đã học

- Củng cố kiến thức , kĩ năng tìm hiểu một tỏc phẩm văn học

B. Phương tiện thực hiện

C. Phương pháp thực hiện:

Gv hướng dẫn hs tìm hiểu theo phương pháp gợin mở và nêu vấn đề tìm hiểu , thảo luạn và trả lưòi câu hỏi

D. Tiến tình bài học

 

doc 12 trang Người đăng minh_thuy Lượt xem 1257Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Chủ đề 10: Tìm hiểu thêm về pus - Kin và ta - go", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soạn: 20/03/09
Giảng: 
CHỦ ĐỀ 10 CB ( tiết 24+25)
Tỡm hiểu thờm về Pus-kin và Ta-go
Mục tiêu bài học
Giúp hs tìm hiểu sâu hơn về hai nhà thơ từ đó khắc sâu kiến thức qua các bài văn, thơ đã học 
Củng cố kiến thức , kĩ năng tìm hiểu một tỏc phẩm văn học 
Phương tiện thực hiện
Phương pháp thực hiện:
Gv hướng dẫn hs tìm hiểu theo phương pháp gợin mở và nêu vấn đề tìm hiểu , thảo luạn và trả lưòi câu hỏi
Tiến tình bài học 
Hoạt động của GV/HS
Nội dung bài học
Mẹ ụng thuộc dũng dừi của Abram Petrovich Gannibal, một người nụ lệ da đen của Pyotr Đại đế[1]. Nhờ thụng minh xuất chỳng và cú những đúng gúp lớn về quõn sự, hàng hải cho nước Nga, Gannibal đó được Pyotr Đại đế nhận làm con nuụi.
 Những thỏng ngày ờm đềm ở đõy về sau này được phản ảnh trong những bài thơ đầu tiờn của Puskin ("Thầy tu", 1813; "Bova", 1814; "Lời nhắn cho Yudin", 1815; "Giấc mơ", 1816).
Thời gian theo học tại đõy ụng đó chứng kiến cuộc Chiến tranh vệ quốc 1812 của nước Nga chống lại quõn Phỏp của Napolộon I. ễng cú bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - "Hồi ức về Hoàng Thụn”
Bài thơ này đó được nhà phờ bỡnh văn học Nga nổi tiếng thời bấy giờ là Gavril Romanovich Derzhavin 
coi là một tỏc phẩm kiệt xuất và đó tụn vinh Pushkin, khi đú mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga.
Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tớch cực tham gia vào cỏc hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trớ thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lỳc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cỏch mạng xoỏ bỏ chế độ nụng nụ tại Nga. Thời gian này ụng cho ra đời những bài thơ mang tớnh chớnh trị như "Gửi Chaadaev" 1818), "Gửi N, 1818), "Làng quờ" (1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiờn của mỡnh - "Ruslan và Lyudmila: và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cỏch cũng như chủ đề, mặc dự cũng phải chịu sự cụng kớch dữ dội từ phớa chớnh quyền.
Tuy nhiờn nhờ sự giỳp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadaev, Fyodor Nikolaevich Glinka), cuối cựng ụng chỉ phải chịu mức ỏn nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thủ đụ Sankt-Peterburg vụ thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đó đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krưm, Moldavia, Kiev. Trong thời gian này ụng vẫn tiếp tục cho ra đời những tỏc phẩm mới cú ảnh hưởng rất lớn tới văn học Nga thế kỷ 19, như "Người tự Kavkaz 1822), "Gavriiliada" 1821), "Anh em lũ cướp" 1822), "Đài phun nước Bakhchisarayskiy" 1824). Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết tiểu thuyết bằng thơ, kiệt tỏc "Evgeny Onegin"[3] 
Thỏng 7 năm 1824, với đơn xin õn xỏ, Pushkin được chớnh quyền cho phộp về ở khu trang trại Pskov tại vựng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soỏt của gia đỡnh. Tại Mikhailovskoe ụng đó sang tỏc những tỏc phẩm lịch sử như vở kịch "Boris Godunov" 1825), "Với biển cả" , 1826), trường ca "Những người Digan" 
Năm 1825, trong lần sang thăm trang trại lỏng giềng, Pushkin đó gặp nàng Anna Kern, người tạo cho ụng cảm hứng để sỏng tỏc bài thơ nổi tiếng "Gửi K". Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thỳc chương năm và sỏu của "Evgeny Onegin", mà lỳc đú Puskin coi là đoạn kết cho phần một của tỏc phẩm.
Nhờ sự sủng ỏi của Sa hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thỳc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiờn cỏc tỏc phẩm thơ ca của ụng vẫn phải cú sự đồng ý của Sa hoàng mới được phỏt hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ khụng được thuận lợi, Pushkin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biờn sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Puskin chuyển hướng sang viết văn xuụi. ễng sỏng tỏc truyện vừa như "Con đầm bớch" tiểu thuyết như "Dubrovski" , 1832-33), "Con gà trống vàng", "Người da đen của Pyotr Đại đế" (khụng hoàn thành)...
Cựng với những người bạn, Pushkin đó thành lập tờ tạp chớ Người đương thời Nhiều tỏc giả nổi tiếng của Nga thời bấy giờ như Aleksandr Ivanovich Turgenev, N.V. Gogol, V.A. Zhukovski, P.A. Vyazemski đó ủng hộ bằng cỏch gửi những tỏc phẩm mới nhất của mỡnh tới cho tạp chớ này. Tuy nhiờn, độc giả Nga khi đú chưa quen với những bài viết mang tớnh phờ phỏn hiện thực sõu sắc đó khụng hưởng ứng tạp chớ Người đương thời. Số lượng độc giả quỏ ớt khiến ban biờn tập lõm vào tỡnh thế rất khú khăn, họ khụng cú đủ tiền để trang trải cho việc in ấn và thự lao cho cộng tỏc viờn. Hai số cuối của tạp chớ cú đến quỏ nửa là sỏng tỏc của Pushkin, phần lớn là để vụ danh. Tiểu thuyết "Người con gỏi viờn đại ỳy" chớnh là được in trờn tạp chớ này.
Lần đầu tiờn Pu-skin gặp Na-ta-li-a vào thỏng 12 năm 1828 (khi ấy Pu-skin đó ở vào tuổi xấp xỉ ba mươi) tại một vũ hội ở Mỏt-xcơ-va. Ngay buổi gặp ban đầu, Pu-skin đó thật sự choỏng vỏng. Trong thư gửi mẹ vợ tương lai, ụng viết: "Khi tụi gặp nàng lần đầu tiờn ở giới thượng lưu người ta mới chỳ ý tới nhan sắc của nàng, cũn tụi thỡ yờu nàng, đầu úc tụi quay cuồng..."
Thỏng tư năm 1829, để "kết thỳc thời trai trẻ và thoỏt ra khỏi tỡnh cảnh bất cứ cậu thanh niờn mới lớn nào cũng cú thể vỗ vai ụng mà rủ rờ nhập những hội ba lỏp", Pu-skin chớnh thức ngỏ lời cầu hụn với Na-ta-li-a.
"Tụi xin cam đoan với nàng bằng lời hứa danh dự rằng tụi chỉ thuộc về nàng hoặc sẽ khụng bao giờ lấy vợ" - Pu-skin khẳng định quyết tõm của mỡnh bằng những lời như đinh đúng cột.
Qua đời vào giữa lỳc sức sống và sức sỏng tạo đang độ phỏt triển dồi dào nhất, Puskin, đối với tất cả những học trũ và những người kế tục sau ụng - những bậc kiệt xuất của nền văn học vĩ đại do ụng đặt nền múng, kể cả chớnh Lộp Tụnxtụi, - đối với tất cả, dự họ cú sống lõu hơn ụng bao nhiờu năm thỏng đi nữa, vẫn mói mói là người anh cả và là người thụng minh nhất. Tất nhiờn, ngay cả hiện nay đối với tất cả chỳng ta ụng vẫn như thế và thậm chớ về mặt nào đú cũn hơn thế, vỡ rằng Puskin của thời đại chỳng ta lớn hơn Puskin mà cỏc thế hệ đi trước chỳng ta đó từng biết.
V.G. Bờlinxki đó viết: "Puskin thuộc về những hiện tượng vĩnh viễn sống và vận động, khụng dừng lại ở thời điểm thần chết bắt gặp, mà vẫn tiếp tục phỏt triển trong ý thức của xó hội".
Người sỏng lập và khai sinh nền văn học vĩ đại mà ý nghĩa thế giới của nú từ lõu đó trở thành hiển nhiờn và vững chắc, người nghệ sĩ mà thiờn tài sỏng tạo của mỡnh ngay cả những đối thủ cũng khụng thể đỏnh giỏ thấp - giờ đõy vẫn là nhà thơ được yờu thớch, kớnh trọng và mến phục nhất của một đất nước vĩ đại, nhiều dõn tộc.
Con đường mựa đụng
 Puskin - 1826
        Xuyờn qua sương mự gợn súng
        Mặt trăng nhụ ra
        Trăng buồn bó dội ỏnh sỏng.
        Lờn cỏnh đồng u buồn
        Trờn đường mựa đụng buồn tẻ
        Xe tam mó vun vỳt lao đi,
        Lục lạc đơn điệu
        Mệt mỏi rung lờn
         Cú gỡ vang lờn thõn thiết
      Trong cỏc khỳc hỏt ngõn nga của xà ớch
        Khi thỡ niềm vui rộn ró
        Khi thỡ nỗi buồn tõm tỡnh
        Khụng một ỏnh lửa mỏi lều
        Rừng sõu và tuyết Ngược chiều tụi
        Chỉ cú cột sọc chỉ đường
        Chạy tới
    Chỏn ngỏn, buồn qua, ngày mai, Nhina
        Ngày mai, quay về với em yờu
        Tụi sẽ lặng người bờn lũ sưởi,
        Ngắm em khụng chỏn mắt.
        Kim đồng hồ tớch tắc
        Quay hết vũng đều đều của nú,
        Và xua đỏm người tẻ ngắt
        Nửa đờm, khụng rẽ chia ta.
        Buồn quỏ Nhina đường tụi đi tẻ ngắt,
        Bỏc xà ớch lặng lẽ thiu thiu,
        Tiếng lục lạc đơn điệu,
        Mặt trăng mờ sương
    (Bản dịch nghĩa)
        Xuyờn những làn sương gợn súng
        Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua,
        Buồn rải ỏnh vàng lai lỏng
        Lờn cỏnh đồng buồn dăng xa
        Trờn đường mựa đụng vắng vẻ
        Cỗ xe tam mó băng đi,
        Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ
        Đều đều khắc khoải lũng quờ.
        Bài ca của người xà ớch
        Cú gỡ phảng phất thõn yờu
        Như niềm vui mừng khụn xiết
        Như nỗi buồn nặng đỡu hiu
        Khụng một mỏi lều, ỏnh lửa,
        Tuyết trắng và rừng bao la
        Chỉ những cột dài cõy số
        Bờn đường sừng sững chào ta.
        ễi buồn đau, ụi cụ lẻ
        Trở về với em ngày mai,
        Nhina, bờn lũ lửa đỏ,
        Ngắm em, ngắm mói khụng thụi.
        Kim đồng hồ kờu tớch tắc
        Xoay đi những vũng nhịp nhàng,
        Và xua lũ người tẻ ngắt
        Để ta bờn nhau trong đờm.
        Sầu lắm, Nhina, đường xa vắng,
        Ngủ quờn bỏc xà ớch lặng im,
        Nhạc ngựa đều đều buụng xa thẳm,
        Sương mờ che lấp ỏnh trăng nghiờng.
                                (Thỳy Toàn dịch thơ)
BÀI THƠ SỐ 28
 Tago
   1. Đụi mắt băn khoăn của em buồn
   Đụi mắt em muốn nhỡn vào tõm tưởng của anh.
 Như trăng kia muốn vào sõu biển cả.
 Anh đó để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,
 Anh khụng giấu em một điều gỡ.
Chớnh vỡ thế mà em khụng biết gỡ tất cả về anh.
 2. Nếu đời anh chỉ là viờn ngọc,
        anh sẽ đập nú ra làm trăm mảnh
        và xõu thành một chuỗi
        quàng vào cổ em.
   Nếu đời anh chỉ là một đúa hoa
        trũn trịa, dịu dàng và bộ bỏng,
   anh sẽ hỏi nú ra đặt lờn mỏi túc em.
 3. Nhưng em ơi, đời anh là một trỏi tim
Nào ai biết chiều sõu và bến bờ của nú,
 Em là nữ hoàng của vương quốc đú Ấy thế mà em cú biết gỡ biờn giới của nú đõu.
 4. Nếu trỏi tim anh là một phỳt giõy lạc thỳ
Nú sẽ nở ra thành một nụ cười nhẹ nhừm
Và em thấu suốt rất nhanh.
Nếu trỏi tim anh chỉ là khổ đau
Nú sẽ tan ra thành lệ trong
Và lặng im phản chiếu nỗi niềm u ẩn.
5. Nhưng em ơi, trỏi tim anh lại là tỡnh yờu,
Nỗi vui sướng khổ đau của nú là vụ biờn.
Những đũi hỏi và sự giàu sang của nú là trường cửu
Trỏi tim anh cũng ở gần em như chớnh đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nú đõu.
                                                                Đào Xuõn Quý dịch
PUS-KIN 
A. TÁC GIẢ
Aleksandr Sergeyevich (1799–1837) là đại thi hào, nhà văn, nhà viết kịch người Nga. ễng đó cú những đúng gúp to lớn trong việc phỏt triển ngụn ngữ văn học Nga hiện đại.
ễng mất khi mới 37 tuổi nhưng đó để lại nhiều kiệt tỏc như "Evegny Onegin", "Người con gỏi viờn đại ỳy", "Con đầm bớch", "Boris Godunov"... ễng được coi là biểu tượng của dũng văn học lóng mạn và tả thực nước Nga thế kỷ 19.
Thời thơ ấu
Puskin sinh ngày 6 thỏng 6 năm 1799 (26 thỏng 5 theo lịch cũ) tại Moskva trong một gia đỡnh quý tộc Nga cú nguồn gốc từ thế kỷ 12.
Thời thơ ấu, trong những thỏng hố, Puskin thường tới sống với bà ngoại tại ngụi làng nhỏ Zakharov, gần thành phố Zvenigorod, ngoại ụ Moskva. 
Thời niờn thiếu
Sỏu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia[2], tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thụn, nay là thị trấn Pushkin) gần thủ đụ Sankt-Peterburg. 
Đi đày
Bản viết tay của Pushkin
Mựa xuõn 1820, do những bài thơ cỏch mạng, thống đốc Sankt-Peterburg, bỏ tước M. Miloradovich, đó quyết định đày Pushkin tới Sibir. 
Cuối năm 1825, thụng qua một số viờn chức cú thiện chớ, Pushkin đó được tiếp cận Sa hoàng Nikolai I để đệ đơn xin õn xỏ và được Sa hoàng chấp thuận. Tuy nhiờn sau thất bại của cuộc Cỏch mạng thỏng Chạp 1825 tại Sankt-Peterburg, chớnh quyền đó xem xột lại tất cả cỏc ấn phẩm chống đối chớnh quyền của Pushkin trước đú và quyết định buộc ụng bị quản thỳc tại gia và cú chớnh sỏch kiểm duyệt nghiờm khắc cỏc tỏc phẩm  ... ờu. Tago viết bài thơ này cỏch chỳng ta ngày nay ngút một thế kỷ mà hỡnh ảnh thơ vẫn mới mẻ, thỳ vị vụ cựng:
        “Nếu đời anh chỉ là viờn ngọc,
        anh sẽ đập nú ra làm trăm mảnh
        và xõu thành một chuỗi
        quàng vào cổ em.
        Nếu đời anh chỉ là một đúa hoa
        trũn trịa, dịu dàng và bộ bỏng,
        anh sẽ hỏi nú ra đặt lờn mỏi túc em.”
    Lời thơ dịch khỏ sỏt và hay. Cú điều trong nguyờn tỏc chữ “cài” (cài lờn mỏi túc em), dịch giả đó chuyển thành “đặt lờn mỏi túc em”, là cho lời thơ thụ, làm giảm đi phong cỏch tao nhó, phong tỡnh của chàng trai!
    3. Đoạn thơ thứ ba, chàng trai khẳng định tỡnh yờu của mỡnh qua hỡnh ảnh so sỏnh: “Trỏi tim”. Ba tiếng “Nhưng em ơi!” vang lờn thiết tha, đắm say. Lời tỏ tỡnh được nõng lờn một tầm cao mới, một chiều sõu thăm thẳm. Tỡnh yờu ấy sõu sắc và mờnh mụng. Em là thần tượng, là nữ hoàng đang ngự trị vương quốc tỡnh yờu - đời anh. Là một lời nhắc khẽ em yờu! Nhẹ nhàng và tế nhị. Gần mà xa, xa mà gần biết trõn trọng và phỏt hiện mọi phẩm chất cao quý tiềm ẩn trong tõm tỡnh người yờu. Lời tỏ tỡnh sang trọng quỏ, chứng tỏ chàng trai cú một trỏi tim rất nhõn văn! Cả đời anh, tõm hồn anh, tỡnh yờu của anh đó thuộc về em:
        “Nhưng em ơi, đời anh là một trỏi tim
        Nào ai biết chiều sõu và bến bờ của nú,
        Em là nữ hoàng của vương quốc đú
        Ấy thế mà em cú biết gỡ biờn giới của nú đõu!”
    Đầu bài thơ, thi sĩ đó dựng hỡnh ảnh “biển cả”, đến khổ thơ này, ụng lại tạo ra những khỏi niệm bổ sung: “bến bờ”, “vương quốc”, “biờn giới” - tạo ra một hệ thống ngụn ngữ diễn tả một khụng gian nghệ thuật để núi lờn niềm tự hào của người con trai cú một tỡnh yờu trong sỏng mờnh mụng.
    4. Tỡnh yờu khụng thể tầm thường và đơn giản. Đõu chỉ là “một phỳt giõy lạc thỳ” để làm “nở ra thành một nụ cười nhẹ nhừm”, tầm thường, thoảng qua! Tỡnh yờu cũng khụng phải là sự hốn hạ, van xin, cầu mong một sự “ban ơn”, một sự yếu mềm. Giọt lệ trong, nỗi thương đau, nỗi sầu u ẩn mà người con trai mang lại trong mỗi cuộc tỡnh chỉ là sự hốn hạ mà thụi. Mà đõu chỉ là lĩnh vực tỡnh yờu, mọi sự quỳ lạy, van xin trong ứng xử đều hốn hạ, đỏng khinh. Đoạn thơ này mang tớnh chất “phản đề”, nhiều người viết sỏch lõu nay đó hiểu khụng đỳng. Chàng trai muốn tõm tỡnh với người yờu là trỏi tim anh khụng phải như thế này đõu:
    “Nếu trỏi tim anh chỉ là phỳt giõy sướng vui, nú sẽ nở nụ cười dịu hiền và em sẽ thấu hiểu nú nhanh - Nếu trỏi tim anh chỉ là nỗi thương đau, nú sẽ tan ra thành lệ trong phản ỏnh nỗi sầu thầm kớn”.
    5. Hai đoạn thơ thứ 4 và thứ 5 tương phản đối lập. Từ phủ định đi đến khẳng định. Khụng nờn như thế này mà phải như thế này. Người con trai đó mang đến cho người con gỏi một tỡnh yờu tuyệt đẹp. Anh tự hào thổ lộ:
        “Nhưng em ơi, trỏi tim anh lại là tỡnh yờu,
        Nỗi vui sướng khổ đau của nú là vụ biờn.
        Những đũi hỏi và sự giàu sang của nú là trường cửu
        Trỏi tim anh cũng ở gần em như chớnh đời em vậy
        Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nú đõu!”
    Trong nguyờn tắc: “những gỡ tỡnh yờu cầu mong” được người dịch thơ viết thành: “những đũi hỏi” dễ làm nhiều độc giả hiểu khụng đẹp ý thơ. Chàng trai tự hào về trỏi tim của mỡnh “lại là tỡnh yờu”, tỡnh yờu đớch thực, đõu phải thứ “trỏi tim chỉ là giõy phỳt lạc thỳ”. Tỡnh yờu của em đó và đang mang đến cho anh bao cảm xỳc kỳ diệu, lỳc thỡ vui sướng, lỳc thỡ khổ đau Tỡnh yờu đõu chỉ toàn vị ngọt? Vui sướng và khổ đau mà tỡnh yờu mang đến là mờnh mụng, là vụ biờn. Những cầu mong và sự giàu cú mà tỡnh yờu, mà trỏi tim của chàng trai là bất tận, là trường cửu. Chàng trai cầu mong ở người tỡnh một tỡnh yờu đằm thắm, chõn thành và thủy chung. Cầu mong con thuyền tỡnh của anh và em sẽ cập bến bờ hạnh phỳc giữa mựa trăng? Nhẹ nhàng thổ lộ và trỏch múc: gần đấy sao mà xa xụi. Hỡnh như em vẫn chưa hiểu tỡnh yờu của anh đó dành cho em. Phải biết phỏt hiện sự cầu mong và giàu sang trong tỡnh yờu, Năm dũng cuối là một “tuyờn ngụn” đẹp của tỡnh yờu. Thơ tỡnh của Tago mang thờm màu sắc triết lý.
    Cú biết chiếm lĩnh trỏi tim người yờu mới thật sự cú và được sống trong một tỡnh yờu đẹp, trọn vẹn.
    Bài thơ tỡnh số “28” của Tago rất đẹp và sỏng tạo trong hỡnh tượng: “đụi mắt buồn, băn khoăn” - “ỏnh trăng soi vào biển cả” - "viờn ngọc và chuỗi ngọc”, “đúa hoa thơm và vũng hoa” - trỏi tim yờu thương mờnh mụng í tưởng phong phỳ và sõu sắc: cỏi ngần ngại, băn khoăn của thiếu nữ trong mối tỡnh đầu; sự chõn thành, say đắm, nồng nàn, khỏt khao trong tỡnh yờu của chàng trai. Khụng thể tầm thường, đơn giản trong tỡnh yờu. Bài thơ tỡnh cũn là một sự đỳc kết, chiờm nghiệm: Yờu là tỡm kiếm, là phỏt hiện và chiếm lĩnh. Tỡnh yờu là sung sướng và khổ đau, là thiếu thốn và giàu sang, gần mà xa, xa mà gần. Phải biết phỏt hiện để chiếm lĩnh tỡnh yờu, cú thế mới thật sự đi tới mỏi ấm hạnh phỳc trong tỡnh yờu đụi lứa.
    Cũng như “Biển” của Xuõn Diệu, “Súng” của Xuõn Quỳnh, “Tụi yờu em” của Puskin, bài thơ này của Tago khụng thể thiếu trong hành trang - tõm hồn “tuổi ỏo trắng” mộng mơ./.
Tỡm hiểu thờm bài thơ
Người làm vườn “67”
                                                                Tagor
Dự buổi chiều đang đến dần từng bước
 và bỏo cho mọi lời ca tiếng hỏt
 hóy đừng đi;
  Dự bạn người đó về chỗ nghỉ ngơi,
và người đó mệt mỏi:
  Dự nỗi sợ len vào trong búng tối
  và khuụn mặt của bầu trời đó bị phủ che;   Nhưng Chim ơi, Chim
 hóy lắng nghe ta
  xin đừng xếp cỏnh.
 Khụng phải búng tối õm u của lỏ rừng đõu,
    Chớnh là biển đang phồng lờn
        như một con rắn đen tăm tối.
   Khụng phải là cuộc khiờu vũ của hoa nhài đang nở,
        mà chớnh là bọt nước ngời lờn.
        ễi, đõu rồi bờ biển xanh rực nắng,
        và đõu rồi, tổ ấm của ngươi?
        Chim ơi, Chim
        hóy lắng nghe ta
        xin đừng xếp cỏnh
  Đờm lẻ loi nằm xuống dọc đường ngươi,
  Và bỡnh minh ngủ phớa sau những đồi cõy rõm búng.
        Những ngụi sao nớn thở đếm từng giờ
   Vầng trăng mỏi đang bơi trong đờm thẳm
        Chim ơi, Chim
        hóy lắng nghe ta
        xin đừng xếp cỏnh.
   Đối với ngươi, khụng cú hy vọng, khụng cú gỡ sợ hói
    Khụng lời núi, khụng cú tiếng thầm thỡ, tiếng khúc.
   Khụng cửa nhà, khụng cú giường để nghỉ ngơi.
        Chỉ cú đụi cỏnh của ngươi
        Và bầu trời mờ mịt
         Chim ơi, Chim
        hóy lắng nghe ta
        xin đừng xếp cỏnh.
    Cũng như chim tung cỏnh bay, tuổi trẻ với nghị lực, tài năng và sức mạnh của chớnh mỡnh hóy bay tới mọi chõn trời, vượt qua mọi thử thỏch gian truõn. Thi sĩ luụn luụn dừi theo “cỏnh chim bay” với bao yờu thương, đợi chờ
Phõn tớch
    1. Cõu thơ “Chim ơi, Chim/ hóy lắng nghe ta/ xin đừng xếp cỏnh” vang lờn 4 lần như một điệp khỳc thiết tha, vừa õn cần giục gió, vừa tin cậy, yờu thương.
 Chim hóy tung cỏnh bay đi, đừng ngần ngại nữa. Cho dự ngày đó tàn, cho dự mọi người đó mỏi mệt “đó về chỗ nghỉ ngơi”, cho dự búng tối và mọi khú khăn đang chờ ở phớa trước thỡ “Chim ơi, Chim/ hóy lắng nghe ta/ xin đừng xếp cỏnh”. Từ “dự” được điệp lại 3 lần, nhà thơ chỉ cho bầy chim - tuổi trẻ - nhận thức đầy đủ rằng: hành trỡnh bay đi gặp nhiều trắc trở. Cỏch núi của Tagor rất độc đỏo và thi vị. Núi về cảnh ngày tàn, Bà Huyện Thanh Quan viết: “Trời chiều bảng lảng búng hoàng hụn”, nhà thơ Hồ Chớ Minh viết “Chim mỏi về rừng tỡm chốn ngủ”, thi hào Tagor cú cỏch núi riờng của mỡnh:
“Dự buổi chiều đang đến dần từng bước
        và bỏo cho mọi lời ca tiếng hỏt
        hóy đừng đi
 Đú là cảnh chiều ờm ả. Thời gian nhẹ trụi. Mọi hoạt động hăng say của cuộc sống sắp bước vào điểm “dừng” trong màn đờm Chớnh lỳc đú “xin đừng xếp cỏnh”. Chim ơi! Phải biết vượt lờn cỏi bỡnh thường để sống đẹp, đú là một ý tưởng nằm sõu dưới vần thơ, núi một cỏch khỏc là “ý tại ngụn ngoại”.
    2. Hành trỡnh của bầy chim - tuổi trẻ - khụng chỉ là “nỳi cao, rồi lại nỳi cao trập trựng” mà cũn là đại dương mờnh mụng, đờm tối mịt mự, là nỗi sợ hói, súng cồn, bóo tố Chim phải vượt qua “biển đang phồng lờn” nổi súng lỳc “búng tối õm u”. Hành trỡnh vượt qua đầy thử thỏch gian truõn. Nhận thức “hành lộ nan” để cú thỏi độ tớch cực trong ứng xử:
        “Chớnh là biển đang phồng lờn
        như một con rắn đen tăm tối.
        Khụng phải là cuộc khiờu vũ của hoa nhài đang nở,
        mà chớnh là bọt nước ngời lờn.”
Con đường đời xưa nay làm gỡ cú nhiều hoa thơm trỏi ngọt? Mỗi dặm đường vượt qua đều phải trả giỏ bằng nỗ lực và quyết tõm, “khụng phải là cuộc khiờu vũ của hoa nhài đang nở”. Đường bay của Chim cũn nhiều thử thỏch khú khăn. Chưa rừ chõn trời, đõu là đớch tới. Dễ lạc lối, lạc bầy!
Xưa kia Lớ Bạch (701-762) từng núi: “Đường đi khú! Đường đi khú! Đường đi khú! Nay ở đõu? Đường bao ngả!” (Hành lộ nan), thỡ đầu thế kỉ 20 này, Tagor núi lờn ý tưởng ấy bằng một cỏch núi khỏc:
  “ễi, đõu rồi bờ biển xanh rực nắng,
        và đõu rồi, tổ ấm của ngươi?”
 Lại một ý mới mể đầy sỏng tạo. Thơ của Tagor là một ngụi đền trỏng lệ dẫn hồn ta suy mờ, ngạc nhiờn khụng cựng khớ chiờm ngưỡng và khỏm phỏ vẻ đẹp của nú. Hỡnh tượng “ngụi sao” là một nột vẽ tài hoa. Nhà thơ nhắc khẽ cỏnh chim. Giữa vũ trụ bao la chim khụng đơn độc, vẫn cú trăng sao là bạn đồng hành. Sao “nớn thở đếm từng giờ”, trăng đang bơi trong đờm thẳm”. Trăng và sao, đờm đờm vẫn thức canh giữ bầu trời, đỏnh dấu thời gian, chiếu rọi đờm tối:
“Những ngụi sao nớn thở đếm từng giờ
        Vầng trăng mỏi đang bơi trong đờm thẳm”
Vỡ thế, khụng thể và khụng nờn: “Chim ơi, Chim - hóy lắng nghe ta - xin đừng xếp cỏnh”.
    Khổ cuối, cấu trỳc rất đặc biệt, từ phủ định đi đến khẳng định. Sau hàng loạt chữ “khụng cú” là từ “chỉ cú” vang lờn đĩnh đạc hào hựng. Khụng thể “nghỉ ngơi” an nhàn bởi lẽ “Khụng nhà cửa, khụng cú giường để nghỉ ngơi!” Và chim chỉ cú, chỉ cú:
        “Chỉ cú đụi cỏnh của ngươi
        Và bầu trời mờ mịt”
    Chim chỉ cú thể bay cao, bay xa, vượt qua trựng dương “mờ mịt” bằng nghị lực, tài trớ và sức mạnh của “đụi cỏnh của mỡnh”. Và tuổi trẻ cũng phải vào đời bằng “đụi cỏnh của ngươi” - Nghị lực phi thường, sống và đua tranh bằng sức mạnh tự thõn của mỡnh là một ý tưởng mang vẻ đẹp nhõn văn tuyệt vời.
  Trong bài thơ này, khụng gian nghệ thuật với bầu trời trăng sao, với súng cồn đại dương, với hoa nhài cú điệu mỳa, cú lời ca tắt trong hoàng hụn, cú cỏnh chim tung bay Thế giới thiờn nhiờn huyền diệu, tạo vật phong phỳ được nhõn húa mang hồn người và tỡnh người. Khụng gian nghệ thuật đó gúp phần tụ đậm hồn thơ của Tagor: hồn nhiờn, thanh khiết, thơ mộng
Bài thơ số “67” là bức thụng điệp màu xanh của Tagor gửi tới những tõm hồn thanh xuõn trong cuộc đời. Với Gorki phải là “cỏnh chim bỏo bóo”. Với thi hào Ba Tư thỡ:
       “Tõm hồn tụi là một cỏnh chim thiờng,
            Gầy tổ trờn tầng trời cao nhất!”
Với Nguyễn Hữu Cầu:
  “Bay thẳng cỏnh muụn trựng Tiờu Hỏn”
Tagor vẫn õn cần tha thiết động viờn mỡnh và động viờn mỗi chỳng ta:
“Chỉ cú đụi cỏnh của ngươi
        Và bầu trời mờ mịt
        Chim ơi, Chim
        hóy lắng nghe ta
        xin đừng xếp cỏnh”.
  Đú là một tư thế sống đẹp muụn lần được khõm phục và ngợi ca

Tài liệu đính kèm:

  • docchủ đề 10. CB PUS-KIN VÀ TA-GO.doc