Dạy học như thế nào để bồi dưỡng cho học sinh tiềm năng trí tuệ sáng tạo, tư duy khoa học vật lý, năng lực giải quyết các vấn đề của Vật Lý

Dạy học như thế nào để bồi dưỡng cho học sinh tiềm năng trí tuệ sáng tạo, tư duy khoa học vật lý, năng lực giải quyết các vấn đề của Vật Lý

 Chúng ta đang sống trong thế kỷ của trí tuệ sáng tạo. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đó là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Sự nghiệp giáo dục phải góp phần quyết định vào việc bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tiềm năng trí tuệ, tư duy sáng tạo, năng lực tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, năng lực giải quyết vấn đề thích ứng được với thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của kinh tế tri thức. Mục tiêu đổi mới này đòi hỏi ở người thầy phải phân tích và nhận thức được tầm quan trọng trong công tác giảng dạy, ngay chính trong bản thân người thầy cũng phải đổi mới về phương pháp giảng dạy cho phù hợp với thực tiễn đặt ra.

 Dạy học trước kia mang tính chất “độc thoại thông báo, giảng giải áp đặt của sự dạy và tính chất “thụ động chấp nhận, ghi nhớ, thừa hành, bắt buộc” sự học của trò. Kiểu dạy học như thế không thể khích lệ, phát huy được hoạt động tự chủ, tìm tòi, sáng tạo giải quyết vấn đề của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Cách thức dạy học đó ngày nay không còn phù hợp với xu thế thời đại. Kiểu dạy học đó không thể tồn tại và chấp nhận được.

 

doc 16 trang Người đăng quocviet Lượt xem 1324Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Dạy học như thế nào để bồi dưỡng cho học sinh tiềm năng trí tuệ sáng tạo, tư duy khoa học vật lý, năng lực giải quyết các vấn đề của Vật Lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.lý do chọn đề tài
 Chúng ta đang sống trong thế kỷ của trí tuệ sáng tạo. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đó là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Sự nghiệp giáo dục phải góp phần quyết định vào việc bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tiềm năng trí tuệ, tư duy sáng tạo, năng lực tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, năng lực giải quyết vấn đề thích ứng được với thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của kinh tế tri thức. Mục tiêu đổi mới này đòi hỏi ở người thầy phải phân tích và nhận thức được tầm quan trọng trong công tác giảng dạy, ngay chính trong bản thân người thầy cũng phải đổi mới về phương pháp giảng dạy cho phù hợp với thực tiễn đặt ra.
 Dạy học trước kia mang tính chất “độc thoại thông báo, giảng giải áp đặt của sự dạy và tính chất “thụ động chấp nhận, ghi nhớ, thừa hành, bắt buộc” sự học của trò. Kiểu dạy học như thế không thể khích lệ, phát huy được hoạt động tự chủ, tìm tòi, sáng tạo giải quyết vấn đề của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Cách thức dạy học đó ngày nay không còn phù hợp với xu thế thời đại. Kiểu dạy học đó không thể tồn tại và chấp nhận được.
 Trong chương trình Vật lý ở bậc học THPT, định luật vật lý là một trong những nội dung cơ bản nhất, song song tồn tại với định nghĩa các đại lượng vật lý mà người giáo viên cần truyền đạt cho học sinh. Vì vậy, việc giảng dạy các định luật vật lý, định nghĩa các đại lượng vật lý theo phương pháp đổi mới là rất cần thiết.
 Từ đó, nảy sinh cho tôi câu hỏi “ Dạy học như thế nào để bồi dưỡng cho học sinh tiềm năng trí tuệ sáng tạo, tư duy khoa học vật lý, năng lực giải quyết các vấn đề của vật lý” .Với các vấn đề nêu trên, bài sáng kiến này đề cập vấn đề: tích cực hóa việc học tập của học sinh qua các tiết học 
Nội dung
Phần một: cơ sở lý luận
 Căn cứ vào mục tiêu của Giáo Dục&Đào Tạo “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu Nước, yêu CNXH”. Trong khi đó, môn học Vật lý trong trường THPT là một trong những môn học cơ bản tạo điều kiện phát triển tư duy của học sinh. Vật lý có mối quan hệ chặt chẽ với môn kỹ thuật, điều đó khẳng định tính cần thiết của môn học. Tính chất cơ bản của các khái niệm vật lý, các định luật vật lý là các luận cứ cơ bản của triết học mang tính khoa học biện chứng một cách sâu sắc, điều đó càng khẳng định Vật lý có thế giới quan khoa học cho học sinh.
 Là một người giáo viên giảng dạy bộ môn Vật lý, tôi nhận thức được nhiệm vụ cơ bản của mình đó là:
Cung cấp cho học sinh kiến thức phổ thông cơ bản có hệ thống và toàn diện về vật lý. Hệ thống này phải thiết thực có tính kỹ thuật và phù hợp với quan niệm hiện đại của vật lý học.
Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng chủ yếu sau:
Quan sát.
Đo lường.
Sử dụng các dụng cụ máy đo phổ biến.
Thực nghiệm, thí nghiệm vật lý đơn giản.
Giải các bài vật lý phổ thông.
Vận dụng các kiến thức vật lý để giải thích hiện tượng đơn giản và ứng dụng của vật lý trong sản xuất.
 - Sử dụng các thao tác tư duy lôgic và các phương pháp cơ bản về môn học vật lý 
Góp phần phát triển năng lực tư duy lôgic cho học sinh.
Góp phần xây dựng cho học sinh thế giới quan khoa học và giáo dục lòng yêu Nước, yêu chủ nghĩa xã hội khoa học và tinh thần quốc tế vô sản. 
Phần hai: cơ sở lý thuyết
 “ tích cực hóa việc học tập của học sinh”
 Theo lý thuyết hiểu theo nghĩa hẹp “Tích cực hóa việc học tập của học sinh” là làm thế nào để học sinh thuộc làu tài liệu ngay trong giờ học trên lớp mà không cần nghiên cứu tài liệu ngoài giờ học. Đồng thời, tích cực hóa việc học tập của học sinh là tổ chức, theo dõi sự chú ý của học sinh ở tất cả các giai đoạn, ở các kiểu khác nhau sao cho học sinh thu được kiến thức không phải thụ động mà là trong quá trình làm việc tích cực tự lực muôn hình muôn vẻ.
 Trên cơ sở lý thuyết và thực tế khi giảng dạy tại trường tôi nhận thấy để tích cực hóa việc học tập của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức bộ môn Vật lý thì người giáo viên cần làm những công việc sau:
I. Chuẩn bị thiết kế bài giảng
 1. Phải nghiên cứu kỹ tài liệu, xác định mục tiêu bài dạy, phần dạy, kiểu bài dạy, kiến thức của bài dạy, nội dung trọng tâm cần truyền tải tới học sinh
Sau đây sẽ liệt kê một số kiểu bài dạy và phương pháp giảng dạy
 1.1. Giảng dạy các khái niệm vật lý
 Định nghĩa:
 Khái niệm vật lý là sản phẩm phản ánh bởi bộ óc những tính chất chung về bản chất của đối tượng và sự vật hiện tượng vật lý.
 Đặc điểm: 
 + Các khái niệm vật lý thường xuất hiện khi nghiên cứu các đại lượng vật lý và được chia làm hai nhóm đó là khái niệm vật lý chỉ có đặc điểm định tính và khái niệm vật lý chỉ có đặc điểm định lượng.
 + Khi giảng dạy các khái niện vật lý, giáo viên phải cho học sinh nắm thật chắc các khái niệm vật lý vì học sinh có nắm chắc các khái niệm vật lý thì mới đi sâu vào bản chất các hiện tượng vật lý và ứng dụng nó trong cuộc sống và trong kỹ thuật.
 Chú ý:
Khi giảng dạy các khái niệm vật lý giáo viên phải chỉ rõ cho học sinh nhận thức rõ được những yêu cầu sau
 - Đại lượng có hướng hay đại lượng vô hướng
 - Đại lượng đặc trưng cho tính chất gì của sự vật hiện 
Đại lượng vật lý ấy là tượng vật lý.
 - Mối liên hệ định lượng giữa nó với các đại lượng khá thể hiện trong công thức nào.
 - Đơn vị đo,cách đo đại lượng đó ra sao
Phương pháp giảng dạy các khái niệm vật lý 
Khi giảng dạy các khái niệm vật lý người giáo viên cần làm theo các bước sau:
Bước 1: Vạch ra đặc điểm lý tính của khái niệm mới cần giảng dạy
 Bằng các ví dụ gần gũi hàng ngày, thí nghiệm mở đầu đơn giản, bài kiểm tra cũ giáo viên cho học sinh thấy trong hiện tượng vật lý hay trong các tính chất vật thể đang nghiên cứu xuất hiện những đặc điểm mới mà kiến thức cũ không thể đặc trưng hoặc giải thích được. Từ đó giáo viên cần xây dựng một định nghĩa mới mà đặc tính của nó có trong ví dụ, thí nghiệm, nội dung kiểm tra ở trên.
Bước 2: Làm sáng tỏ đặc điểm định lượng của khái niệm mới
 Các đại lượng vật lý có liên quan với nhau bằng nhiều cách khác nhau. Trong sách giáo khoa mối liên hệ giữa các đại lượng vật lý thường được xác lập bằng thực nghiệm hoặc biến đổi các biểu thức toán học tìm ra sự phụ thuộc định lượng giữa đại lượng mới và đại lượng cũ. Trong bước này giáo viên cần vạch ra, chỉ rõ cho học sinh tìm hiểu quan hệ định lượng giữa đại lượng mới và các đại lượng cũ mà giáo viên đã tổng kết ở bước 1
 Bước 3: Định nghĩa khái niệm mới
 Giáo viên chỉ thực hiện bước này khi biết học sinh đã nắm chắc bước 2 tổng kết của việc nghiên cứu đúc rút những tri thức đã thu được về khái niệm vào trong một hình thức giản đơn dễ hiểu thông thường ta đưa ra khái niệm mới giản đơn bằng lời.
 Bước 4 : Xây dựng đơn vị đo
 Đơn vị đo thường được suy ra từ công thức của định nghĩa. Trong bước này giáo viên yêu cầu học sinh tự xây dựng và đặt câu hỏi về ý nghĩa, định nghĩa đơn vị đo đó cũng là một hình thức giúp học sinh hiểu, nhớ, nắm vũng khái niệm mới.
 Bước 5: Vận dụng khái niệm mới vào thực tiễn
 Trong bước này giáo viên cho học sinh giải thích hiện tượng vật lý đơn giản hoặc giải bài tập đơn giản ngay tại lớp học và cuối cùng giao bài tập về nhà cho học sinh vận dụng.
Chú ý: 
 Đến bước 3 giáo viên chỉ cần học sinh hiểu, nhớ khái niệm mới chứ chưa cần đòi hỏi ở học sinh nắm vững kiến thức đã học. Khi giảng dạy giáo viên hay bỏ qua bước 4, bước 5 mà đã đòi hỏi ở học sinh nắm vững kiến thứclà một điều vô lý.
1.2. Giảng dạy các định luật vật lý
 Đặc điểm:
 + Định luật vật lý là bước tiếp theo của việc phát triển cao hơn sau khái niệm vật lý. Nó thiết lập mối quan hệ chặt chẽ sâu sắc các hiện tượng vật lý.
 + Định luật vật lý có tính tất yếu, phổ biến, tức là trong điều kiện nhất định nó có tác dụng bất kỳ ở đâu và ở chỗ nào. Vì thế, mỗi khi loài người phát hiện ra một định luật vật lý thì trình độ con người phát triển cao hơn.
 + Khác với các quy luật của thực tế khách quan không thay đổi và tồn tại độc lập với ý thức con người, thì định luật vật lý là kết quả của tư duy khoa học khi nhận thức về tự nhiên, nhận thức của con người cao hay thấp mà định luật vật lý phản ánh đúng thực tế khách quan nhiều hay ít.
 + Thực nghiệm “Thí nghiệm, quan sát, đo lường” là phương tiện cơ bản của vật lý, hầu hết các định luật vật lý đều rút ra từ thực nghiệm cho nên nó thể hiện tính khoa học, tính thực tiễn cao.
 Chính bởi các đặc điểm trên mà khi học sinh cần nắm vững một định luật vật lý cần biết các yêu cầu sau 
Định luật vật lý: 
 - Phản ánh được mối quan hệ giữa các hiện tượng ra sao.
Nội dung định luật được phát biểu như thế nào.
Biểu thức toán học của định luật (nếu có)
ứng dụng của định luật (nếu có)
Giới hạn áp dụng định luật.
Cách thức, quá trình hình thành định luật.
 Phương pháp giảng dạy các định luật vật lý
 Khi giảng dạy các định luật vật lý giáo viên cần thực hiện các bước sau
Bước 1: Ôn tập những khái niệm cũ có mặt trong định luật
 Trong bước này giáo viên cần kiểm tra nhận thức của học sinh về các khái niệm cũ có mặt trong định luật mà học sinh đã học. Tuy nhiên không phải ôn lại tất cả những gì có liên quan tới nội dung của định luật mà người giáo viên cần hướng học sinh vào những nội dung khái niệm cơ bản. Nếu khái niệm đó là quá khó hoặc học sinh đã học ở THCS mà học sinh chưa nhớ thì giáo viên có thể dành hẳn một khoảng thời gian củng cố lại các khái niệm đó trước khi vào mục mới. 
 Chỉ sau khi biết chắc học sinh hiểu rõ bản chất của khái niệm liên quan, giáo viên mới bước vào giảng phần đó.
Bước 2: Định hướng sự chú ý của học sinh vào mối liên hệ các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên cần nghiên cứu, vạch rõ các đại lượng sắp nghiên cứu
 Để thực hiện bước này giáo viên cần lấy các ví dụ đơn giản về các hiện tượng vật lý gần gũi với đời sống hàng ngày hoặc các thí nghiệm định tính đơn giản
 Chú ý: Trong bước này khi phân tích các hiện tượng, các ví dụ đã chọn, giáo viên cần hướng học sinh vào phạm vi giới hạn của các đại lượng liên quan tới định luật vì giữa các mặt của sự vật hiện tượng cũng có nhiều mối quan hệ qua lại phức tạp, nếu không hạn chế phạm vi học sinh sẽ không hiểu mục đích nghiên cứu. Mục đích cuối cùng của bước này là học sinh chỉ ra được các đại lượng liên quan tới định luật và mối quan hệ qua lại định tính giữa chúng.
Bước 3: Tìm nội dung định luật hay tìm mối liên hệ qua lại giữa các đại lượng
 Trong SGK nhìn chung các định luật vật lý được xây dựng từ thí nghiệm, hoặc các bài toán định lượng. Đối với kiểu bài xây dụng bằng thí nghiệm, giáo viên cần chú ý chuẩn bị thí nghiệm kỹ vì khi tiến hành trên lớp cần chính xác thành công ngay. Từ nội dung kết quả của thí nghiệm, giáo viên hướng dẫn cho học sinh phân tích hoặc dẫn dắt học sinh biện luận tìm mối quan hệ định lượng giữa các đại lượng, khái niệm liên quan trong thí nghiệm và kết thúc bằng việc học sinh tự t ...  ở hình thức cao hơn. Đối với học sinh khá tôi không chỉ kiểm tra nội dung trong sách giáo khoa mà bao giờ cũng đặt lần lượt các câu hỏi lôgic từ dễ đến khó, liên tục đòi hỏi ở học sinh không chỉ thuộc nội dung bài mà cơ bản học sinh hiểu bài tới đâu. Khi học sinh không thuộc bài tôi thường yêu cầu học sinh về nhà chép lại nội dung bài kiểm tra từ 10 đến 20 lần tùy theo đối tượng hoặc có thể yêu cầu học sinh học ngay trên lớp cho thuộc khi học sinh kiểm tra lại thuộc tôi thường đông viên bằng các câu hỏi “ học bài cũ khó hay dễ ? em học bằng cách nào thì chóng thuộc bài cũ ?” 
 Kiểm tra dụng cụ học tập của học sinh trên lớp. Điều kiện đảm bảo cho học sinh học, hiểu nội dung bài học trên lớp thì bắt buộc học sinh phải chuẩn bị đủ dụng cụ học tập đối với tôi cần ở học sinh trong các giờ học phải có sách giáo khoa, sách bài tập, vở ghi chép không phải giờ học nào cũng kiểm tra mà giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị từ đầu năm học và đột xuất trong giờ học giáo viên kiểm tra dụng cụ học tập của học sinh. Những học sinh không mang sách giáo khoa hoặc sách bài tập trong các giờ bài tập, hôm sau tôi kiểm tra ngay nội dung bài cũ học sinh đó. 
 Kiểm tra ghi chép của học sinh trong các giờ học. Khi kiểm tra miệng hoặc giờ bài tập giáo viên kiểm tra ghi chép của học sinh trong tiết trước. Trong giờ học tôi không quan tâm tới việc học sinh ghi chép như thế nào nhưng không hẳn là học sinh chỉ ngồi nghe và tham gia vào tiết học là đủ. Mà điều tôi quan tâm tới học sinh ghi chép những gì, những nội dung cơ bản của bài học học sinh phải tự ghi lại theo cách hiểu của mình hoặc về nhà học sinh có thể tự ghi lại bài học. Khi kiểm tra học sinh phải có trong vở lý thuyết của mình. Vì cùng một buổi, học sinh tiếp thu các kiến thức của nhiều bộ môn , nhiều kiến thức mới và có kiến thức mà sách giáo khoa không có nhưng rất quan trọng đối với sự phát triển tri thức của học sinh và nội dung trọng tâm bài học, trong khi đó học sinh THPT đang trong độ tuổi tâm lý phát triển nhân cách nên không thể nhớ lâu, vì vậy vở lý thuyết là dụng cụ học tập thứ ba của học sinh sau SGK và sách bài tập, rất tốt cho học sinh học trên lớp cũng như ở nhà. 
 Kiểm tra định hướng hành động học của học sinh. Khi giáo viên giao nhiệm vụ, đưa ra vấn đề tri thức thì giáo viên cần kiểm tra. Thể hiện ở chỗ giáo viên phải bao quát được toàn bộ lớp học. Kiểm soát, theo dõi toàn bộ hoạt động học của học sinh. Khi phát hiện học sinh không tập chung bài học tôi thường gọi ngay học sinh đó trả lời kiến thức phần trước đó học sinh đã học, ngay trong bài học mới. Từ việc rất nhỏ của học sinh đến việc học sinh nói truyện không phải vấn đề bài học giáo viên cần nhắc nhở ngay. 
Đề suất vấn đề nhận thức 
 Đề suất vấn đề nhận thức là đặt vấn đề, nêu mục đích bài học, xét hiện tượng gì, nghiên cứu các vấn đề giữa các hiện tượng phụ thuộc vào các đại lượng nào. Chú ý ở đây giáo viên mới chỉ là đề suất chứ chưa nói tới kết quả của việc giải quyết vấn đề.
 Đề suất vấn đề nhận thức là một yêu cầu sư phạm vì nó có tính chất kích thích tính tích cực, phát triển tư duy của học sinh, sự tò mò của học sinh cần khám phá. Nó có tác dụng thực sự khi gặp tình huống có vấn đề.
 Theo tôi để tạo tình huống có vấn đề giáo viên có thể tạo ra như sau:
 - Liên hệ với đời sống hàng ngày gần gũi với học sinh. đây là cách phổ biến nhất để tạo ra tình huống giáo viên có thể kể ra ý nghĩa, ứng dụng của khoa học kỹ thuật và xác định chúng. 
 - Giáo viên có thể sử dụng những thí nghiệm gợi mở kỳ lạ trái với dự đoán của học sinh.
 Ví dụ: Trong bài sự rơi tự do trong SGK vật lý lớp 10 giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh ( 1 Viên sỏi và 1 mẩu giấy vật nào rơi nhanh hơn khi ta thả từ cùng một độ cao so mặt đất? ). Cho học sinh nhận xét nhiều học sinh sẽ cho rằng viên sỏi rơi nhanh hơn tiếp đó giáo viên làm thí nghiệm cho học sinh quan sát học sinh thấy ở thí nghiệm chúng rơi như nhau từ đó giáo viên đặt câu hỏi yếu tố nào ảnh hưởng tới tốc độ rơi của các vật ?. Bằng thí nghiệm đòi hỏi ở học sinh phải suy nghĩ lại bằng sự quan sát bằng kiến thức đã học để học sinh khám phá nhận định lại sự rơi của các vật trong không khí.
 - Giáo viên có thể sử dụng các bài tập gợi mở kích thích tư duy của học sinh.
 Ví dụ: Khi giảng dạy bài ngẫu lực giáo viên cho học sinh giải bài tập đơn giản về tổng hợp hai lực song song ngược chiều tác dụng lên vật rán yêu cầu học sinh tìm lực tổng hợp xác định trạng thái của vật khi có lực tác dụng. Rõ ràng khi học sinh áp dụng quy tắc hợp lực của 2 lực song song ngược chiều thấy lực tổng hợp F = 0, tổng mô men hai lực cũng bằng không vật ở trạng thái đứng yên trên thực tế vật lại chuyển động. Hiện tượng này ta giải thích thế nào ?
 4. Thường xuyên cho học sinh vận dụng kiến thức cũ đã học để xây dựng kiến thức mới
 Biện pháp này tích cực hóa tư duy của học sinh và đảm bảo kiến thức học sinh chiếm lĩnh sâu sắc, vững chắc vì “ tiếp thu là hòa lẫn sản phẩm kinh nghiệm của người khác với kiến thức của chính mình” .
 Học sinh được vận dụng kiến thức cũ chứng minh kiến thức mới từ đó học sinh một lần nữa ôn tập lại kiến thức cũ mà học sinh đã hiểu và từ đó tư duy của học sinh cũng được phát phiển theo một mức độ mới.
 Khi dạy các tri thức vật lý điều tối kỵ ở giáo viên là sử dụng những kiến thức mà học sinh chưa biết để chứng minh những kiến thức mới.
 Sử dụng nhiều thí nghiệm biểu diễn vật lý theo phương pháp biểu diễn kích thích học sinh tò mò, hiếu kỳ, lôi cuốn học sinh vào bài mới nhanh hơn học sinh học tập hăng hái hơn.
5. Tổ chức các tình huống học tập có vấn đề
 Biện pháp này giúp học sinh luôn luôn suy nghĩ,tích cực, tự chủ, phải tìm hiểu nhưng không nhàn chán.
 Tình huống học tập có vấn đề thể hiện ra ở chỗ Giáo viên phải soạn thảo được những nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề tương ứng với tri thức cần dạy để giao cho học sinh. Sao cho nhiệm vụ đó học sinh hăng hái đảm nhận thực hiện theo suy nghĩ, giải pháp của mình.
 Khi giáo viên đưa ra các tình huống học tập có vấn đề phải chú ý tới sự chuyển tiếp các kiểu tình huống có vấn đề vừa sức với sự nhận thức của học sinh không quá khó. Giữa các tình huống đó phải có sự lôgic giúp học sinh không nhàm chán mà luôn luôn suy nghĩ.
6. Định hướng khái quát hành động học, thể chế hóa tri thức cần học
 Để định hướng được hành động học của học sinh một cách tích cực, tự chủ giáo viên không đơn thuần bày sẵn cho người học những kết quả cần có, có sẵn trong sách giáo khoa. Để người học chỉ việc chấp nhận, ghi nhớ, làm theo mà giáo viên phải giúp đỡ để người học tự chủ suy nghĩ, hành động hướng tới cái cần có mà chưa biết cụ thể, để nắm bắt làm chủ cái cần có đó, bổ sung vào vốn hiểu biết của mình. Giáo viên không nên đặt câu hỏi mà kiến thức đó học sinh chỉ đọc sách là có mà cần đặt câu hỏi về kiến thức trong sách nói gì ? Vận dụng kiến thức cũ, hiểu biết của mình để giải đáp kiến thức đó như thế nào ? giáo viên cần đưa ra các câu hỏi gọi mở dẫn dắt học sinh hiểu dần ra vấn đề của tri thức. ở đúng lúc cần thiết giáo viên mới cung cấp cho học sinh những thông tin bổ sung, thông báo, giảng giải để chuẩn xác hóa tri thức cần nắm vững. Từ đó định hướng cho học sinh tự hoàn thiện tiếp tri thức của mình lúc này giáo viên dành một khoảng thời gian để học sinh tự ghi lại kiến thức đó theo cách hiểu của học sinh vào vở. Chú ý kiến thức đó Giáo viên không đọc cho học sinh ghi mà tự học sinh viết lại, Tri thức đó phải đảm bảo học sinh đã hiểu và họ chỉ tái tạo lại bằng ngôn ngữ của chính người học.
7. Củng cố bài học, định hướng phương pháp học tập ở nhà của học sinh
 Củng cố bài học là công việc gần cuối cùng của giáo viên trên quan điểm trong giờ học giáo viên nhận biết học sinh học, tiếp thu như thế nào, bên cạnh đó giúp học sinh ôn tập củng cố lại tri thức vừa học giáo viên có thể đưa ra các bài tập trắc nghiệm yêu cầu học sinh chọn đáp án đúng và dựa vào kiến thức trọng tâm bài học học sinh tự giải thích đáp án mình vừa chọn. Giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh nhắc lại bằng lời nội dung bài học. Hoặc giáo viên ra bài tập yêu cầu học sinh đưa ra lời giải nhanh trên cơ sở đó giáo viên tổng kết lại nội dung cơ bản bài học, gạch chân những nội dung cơ bản bài học, dùng phấn khác màu đóng khung các công thức vận dụng.
 Định hướng phương pháp học tập ở nhà của học sinh là giáo viên có thể giao cho học sinh các bài tập, các bài tập đó phải đảm bảo có tính chọn lọc nội dung các bài tập giao từ dễ đến khó, bài tập vừa mang tính áp dụng củng cố tri thức bài học, vừa mang tính sáng tạo đòi hỏi học sinh khá giỏi phải suy nghĩ. Sau các tiết bài tập, lý thuyết có công thức vận dụng làm bài tập tôi thường nhắc nhở học sinh về nhà ghi lại toàn bộ công thức, phương pháp giải bài tập vào một quyển riêng, phương pháp này giúp học sinh vừa ôn tập tri thức vùa có cẩm nang bổ ích cho học sinh học về sau. 
Phần ba: kết quả điều tra khảo sát thực tiễn
I. Mục đích.
+ Khảo sát vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm
+ Xem xét việc học sinh nắm vững nội dung tri thức mới 
+ Tìm hiểu nguyên nhân của việc học sinh tiếp thu kiến thức 
+ Trên cơ sở khảo sát cần bổ sung kiến thức cho học sinh.
II. đối tượng khảo sát.
 Tác giả tiến hành khảo sát trên các lớp 10 của ban cơ bản và ban nâng cao,gồm các lớp 10B1, 10B3, 10B5, 10C2, 10A1, 10A2, 11A4, 11A6, 11B1,11B3.
 Đặc điểm của đối tượng khảo sát:
 Nhìn chung học sinh trên các lớp phần lớn là các học sinh trung bình,số lượng học sinh khá chiếm tỉ lệ thấp.riêng lớp 10A1, 10A2 11A4 số học sinh khá chiếm tỉ lệ cao hơn so với các lớp còn lại.
III. kết quả
 + Trong quá trình giảng dạy tác giả đều đưa ra các câu hỏi gợi mở, phân tích tổng hợp đi thẳng vào vấn đề trọng tâm của bài và cuối tiết đều có các câu hỏi trắc nghiệm và bài tập định lượng trắc nghiệm thì thấy kết quả là: 90% học sinh hiểu ngay lý thuyết sau tiết dạy, 60% học sinh biết vận dụng làm bài tập đơn giản.
IV. Giải pháp
1 Phân tích hiện tượng
 Qua việc khảo sát thấy về lý thuyết học sinh hiểu ngay vấn đề nhưng vẫn còn tồn tại sau:
Kiến thức toán học của học sinh còn hạn chế, đặc biệt là kiến thức véc tơ, hàm số, biến đổi biểu thức toán học, tính số dẫn đến sự biến đổi các đại lượng vật lý còn yếu
Học sinh đưa ra được nội dung lý thuyết nhưng vận dụng vào thực tế còn lúng túng, chưa giải thích được một số các hiện tượng vật lý xảy ra.
Sau các bài học, học sinh nhận thức được ngay nội dung bài học nhưng đến hôm sau khi kiểm tra thì học sinh còn lúng tứng 
2 Giải pháp 
 - Trong các tiết học giáo viên cần củng cố kiến thức toán học nhất là kiến thức về véc tơ.
 - Trong các tiết bài tập giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách biến đổi các đơn vị vật lý.
 - Tăng cường kiểm tra việc học bài cũ của học sinh ở nhà.
Kết luận.
Trong thời gian ngắn và điều kiện nội dung chương trình SGK nói chung, SGK môn vật lý nói riêng mới được cải cách, nhiều kiến thức còn mới với cả thầy và trò, tác giả làm đề tài này trong phạm vi nội dung hẹp, phạm vi khảo sát ít. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân tình của các đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện, phương pháp giảng dạy ngày càng đổi mới nâng cao hơn.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn Vat Li thpt.doc